Hành quân đến xế chiều, đại đội tôi dừng chân nghỉ tại một làng nhỏ của huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An. Lúc hoàng hôn chưa buông xuống, tôi kịp nhận ra ngôi làng có cánh đồng lúa rộng mênh mông sát với những ngọn đồi lúp xúp giống như một làng trung du ở miền Bắc. Hình như cả cái làng ấy không có một ngôi nhà lợp ngói nào. Dưới hàng cau, hàng cây xoan cao lớn là những ngôi nhà tranh nhỏ lúp xúp chỉ cao hơn hàng rào bờ cây cúc tần, bụi duối nửa thân mái. Nhà nào cũng có một cái rèm trước cửa chính, ban ngày nắng thì chiếc rèm hạ xuống, ban đêm thì chống lên bằng một nạng tre cao ngang mép cửa. Tiểu đoàn tôi có đến 4 người quê ở Yên Thành là Tùng, Cống, Cảnh, Chuyên. Nhà các anh cách chỗ tiểu đoàn trú quân chừng hai đến ba cây số nhưng không ai ghé về, không ai cho bố mẹ, người thân biết…
Tôi và Tùng được bố trí ở trong một ngôi nhà nhỏ. Nhà chỉ có người mẹ và cô con gái. Người mẹ có gương mặt phúc hậu nhưng gầy gò và khó đoán tuổi. Bà có con trai cả đi bộ đội đầu năm 1971. Cô con gái nói rằng chiều nào mẹ cô cũng ra ngồi dưới bụi tre đầu ngõ ngóng về phương Nam. Cô con gái đang học lớp 9 có tên là Gạo. Một số địa phương miền tây Nghệ An thường gọi gạo là gấu và hình như bà mẹ cũng gọi em là Gấu. Vì vậy, chúng tôi cũng gọi đùa em Gạo là “Gấu”. Gấu có gương mặt rất thanh tú nhưng lại đậm chất mộc mạc, chân quê. Vẻ đẹp ấy lại càng quyến rũ với một cô gái ở tuổi vừa mới dậy thì. Hình như lần đầu tiên trong nhà có hai anh bộ đội được xếp nghỉ nhờ nên Gấu rất quý chúng tôi. Ở trường về là Gấu cứ xoắn lấy chúng tôi, dường như lúc nào cũng sợ chúng tôi biến mất. Tối đầu tiên cả ba chúng tôi cứ xoay quanh miệng chiếc giếng khơi trước sân nói chuyện, quá nửa đêm đến phiên đổi gác mới chịu đi ngủ. Thế mà sau mỗi ca gác, tôi và Tùng vừa đặt súng vào góc nhà đã thấy Gấu xuất hiện. Vậy là cả ba lại ra tựa miệng giếng nói chuyện cho tới khi trăng lặn mới vào nhà…
Chúng tôi dừng chân ở Yên Thành hai đêm một ngày. Đêm thứ hai, nghĩa là mờ sáng hôm sau, chúng tôi lại tiếp tục hành quân. Cơm tối xong ba đứa chúng tôi lại xoay quanh bên miệng giếng, những câu chuyện, những tiếng cười, những ánh mắt lặng nhìn nhau, nhiều khi không ăn nhập vào nhau. Thỉnh thoảng chúng tôi lại bị tổ gác tuần tra đi qua nhắc nhở. Tổ gác đi rồi chúng tôi lại lẻn ra bờ giếng. Đến lượt tổ gác khác lại nhắc, hình như họ nhắc để mà nhắc, bởi những chiến sĩ làm nhiệm vụ tuần tra, canh gác ấy cũng chính là đồng đội của chúng tôi, sáng mai họ cũng tiếp tục hành quân.
Tiếng còi báo thức, chúng tôi vào nhà nhét vội quân tư trang vào ba lô. Tôi và Tùng khoác súng, ba lô ra chào bà mẹ nằm ngủ trên chiếc chõng tre giữa sân. Không thấy Gấu đâu, đêm trước khi chia tay chúng tôi, Gấu không vào giường trong nhà mà lên chõng tre ôm lưng mẹ. Tôi và Tùng nhìn nhau và thoáng nhận ra Gấu đã đứng ngoài bụi tre trước ngõ. Gấu dúi vào tay tôi một chiếc cặp tóc ba lá, chiếc cặp tóc to bản đã được quấn kín bằng những sợi len. Ngày ấy ở Khu 4, các cô gái thường quấn sợi len lên chiếc cặp tóc inox sáng trắng để ngụy trang che máy bay địch.
Tôi đùa:
- Hai anh em, Gấu tặng ai?
Gấu nắm chặt và úp hai bàn tay tôi và Tùng lại:
- … Cả hai!
Tôi cũng kịp dúi vào tay Gấu một mẩu giấy viết vội 4 câu thơ vừa nghĩ đêm qua: “Em có biết sáng mai tôi ra trận?/ Đêm thượng tuần trăng lặn đáy giếng khơi/ Màu mơ ước xanh như mắt ngọc/ Nghe rặng tre già đưa võng à ơi!”.
Tôi nhường lại cho Tùng chiếc cặp tóc ba lá. Chúng tôi lại tiếp tục hành quân. Đến Quảng Bình dừng nghỉ ở Cự Nẫm hai ngày chuẩn bị rẽ lên Trường Sơn...
HỒ ANH THẮNG