Chưa nhiều người biết, vùng đất hai bên bờ con sông huyền thoại này là những khu làng có lịch sử lâu đời. Bề dày truyền thống lập làng, đánh giặc giữ nước của các thế hệ đồng bào tích tụ từ hàng ngàn năm giúp vùng đất này trở thành nơi “địa linh nhân kiệt”…
Văn hóa làng bên sông Thạch Hãn
Cuối năm, những con đường đổ về miền Trung nhộn nhịp hơn thường lệ. Từ sân bay Huế, chúng tôi hành trình về Quảng Trị bằng xe ô tô dọc theo Quốc lộ 1A. Hồn thiêng sông núi cùng những giá trị lịch sử, văn hóa của một vùng “địa linh nhân kiệt” như những khuôn hình của thước phim quay nhanh, hiện ra loang loáng qua cửa kính ô tô.
Những khu làng nằm hai bên bờ sông Thạch Hãn thuộc huyện Triệu Phong, dù bị chiến tranh tàn phá nặng nề nhưng vẫn còn hiện hữu nhiều dấu tích từ thời tổ tiên khai thiên lập địa. Những chiếc cổng làng mang kiến trúc cổ, truyền thông điệp đến cư dân về tinh thần trọng lễ giáo, gia phong, trân quý truyền thống cha ông. Khác với khung cảnh phố xá tấp nập, đường sá thênh thang bên ngoài, càng đi vào làng bên sông, càng thấy sự tĩnh mịch, xanh mát. Làng an yên với những lối ngõ sỏi đá, hai bên xanh đầy dâm bụt và những nếp nhà bình dị dưới tán cây rậm rì. Vị trí trang trọng, linh thiêng trong làng là các công trình kiến trúc đình, chùa có tuổi đời trên dưới 300 năm, được xếp hạng Di tích lịch sử-văn hóa cấp Quốc gia, tiêu biểu như ngôi chùa cổ Chánh Giác, đình làng Nhan Biều…
    |
 |
Cụ Lê Văn Hoan, nguyên Chủ tịch HĐND tỉnh Quảng Trị, người học trò của đồng chí Lê Duẩn. |
Cụ Lê Kim Lợi, một trong những bậc cao niên học cao, hiểu rộng ở xã Triệu Thượng kể rằng, những ngôi làng bên sông Thạch Hãn ngày nay được hình thành từ thời nhà Hán thôn tính nước Nam Việt (khoảng năm 111 trước Công nguyên). Khi Huyền Trân công chúa về Chiêm Thành, tổ tiên của vùng đất này theo dòng người di cư từ Thanh Hóa, Nghệ An vào, chọn những khoảnh đất bên sông Thạch Hãn định cư, lập nên làng xóm, phát triển giống nòi. Đa phần các tên làng, tên xóm được gắn với tên tuổi của các bậc hiền nhân có công lao khai khẩn, khai trí của đất và người. Chẳng hạn làng Nhan Biều, tên làng được ghép bởi từ giang biều (quả bầu bên sông) với tên học sĩ Nhan Hồi, là bậc hiền tài khai trí cho dân làng từ thuở khai thiên lập địa. Vào khoảng năm 1570, khi Nguyễn Hoàng trấn thủ xứ Quảng Nam, đã dời dinh về làng Cát Dinh, nay thuộc xã Triệu Giang, chia ra 5 cánh quân, gồm: Tiền Kiên, Trung Kiên (Nhan Biều), Tả Kiên, Hữu Kiên và Hậu Kiên. Trải qua bao thăng trầm lịch sử, những tên làng đặt theo lối cổ tự xa xưa vẫn được bảo tồn, gìn giữ cho đến hôm nay. Truyền thống định cư lâu đời khiến vùng đất này phát triển dòng dõi đề huề. Các làng trong vùng đã phát triển đến hơn 50 dòng tộc. Truyền thống hiếu học, tinh thần tôn vinh đạo học và ý chí khắc chế hoàn cảnh, vượt lên khó khăn của dân làng bên sông Thạch Hãn được hình thành, nuôi dưỡng và phát triển từ hàng trăm năm qua. Đây cũng chính là nguồn cảm hứng to lớn của giới sáng tác văn học-nghệ thuật và nguồn sử liệu dồi dào của các chuyên gia lịch sử, văn hóa khi đặt chân đến Quảng Trị. Định hướng phát triển du lịch truyền thống, tín ngưỡng của tỉnh Quảng Trị xác định vùng này là trọng tâm. Trong số những làng bên dòng Thạch Hãn, Hậu Kiên là một trong những làng tiêu biểu, bởi đây là nơi sinh thành, nuôi dưỡng một nhân cách lớn của thời đại Hồ Chí Minh-Tổng Bí thư Lê Duẩn…
Ân tình lãnh tụ và lửa thiêng truyền thống
“Địa chỉ đỏ” về nguồn ở làng Hậu Kiên là Khu di tích lưu niệm Tổng Bí thư Lê Duẩn. Đã cuối đông, không khí đoàn viên của con cháu muôn phương hướng về cội nguồn làm cho cái lạnh se sắt của đất trời như được sưởi ấm. Chúng tôi được cô hướng dẫn viên với chất giọng rặt Quảng Trị đưa vào dâng hương tưởng niệm đồng chí Lê Duẩn. Căn nhà gỗ lợp ngói giản dị mang phong cách nhà ở của nông dân miền Trung thời xưa là một công trình phục chế trên chính nền đất cũ. Du khách vô cùng thích thú và cảm phục khi tận mắt chứng kiến trong nếp nhà bình dị, đơn sơ với những thứ tài sản rất giản lược ấy, đã nuôi dưỡng nên tầm vóc của một nhà lãnh đạo kiệt xuất của dân tộc Việt Nam.
Với người dân địa phương, khu di tích trên mảnh đất thiêng này có ý nghĩa như ngọn lửa giữa núi sông hùng vĩ. Nhiều học trò được đồng chí Lê Duẩn dìu dắt đi theo cách mạng, sau khi cống hiến tuổi trẻ cho đất nước, đã trở về nơi cắt rốn chôn nhau. Cụ Lê Văn Hoan, 87 tuổi, nguyên Chủ tịch HĐND tỉnh Quảng Trị, nguyên đại biểu Quốc hội các khóa VII, VIII là một người như vậy. Cụ kể:
- Trong kháng chiến, tôi hoạt động ở vùng ven, làm Bí thư Thị ủy Quảng Trị, được chú Lê Duẩn định hướng, giúp đỡ. Năm 1961, tôi ra Bắc gặp chú Lê Duẩn tại Trường Đảng Nguyễn Ái Quốc. Chú căn dặn chúng tôi phải chú ý phát triển lực lượng du kích địa phương đi đôi với đẩy mạnh công tác địch vận. Chúng tôi học hỏi được rất nhiều tư tưởng quân sự, chính trị và phương pháp xây dựng lực lượng, tiến hành cách mạng vũ trang do chú Lê Duẩn truyền dạy.
    |
 |
Nhà lưu niệm đồng chí Lê Duẩn trong khuôn viên di tích bên bờ sông Thạch Hãn. Ảnh: THU NGA |
Những cán bộ lão thành có kỷ niệm sâu sắc với Tổng Bí thư Lê Duẩn mà chúng tôi gặp gỡ trong chuyến về nguồn này đều chung tâm niệm cảm phục, biết ơn sâu sắc đối với người lãnh đạo từng giữ cương vị cao nhất của Đảng ta trong nhiều năm. Trong sự nghiệp đấu tranh, giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước, ông là nhà tư tưởng lớn. Trong tình thân hiếu nghĩa với gia đình, họ mạc, bà con ở quê hương, ông là người nhân hậu, chất phác, thủy chung, tình nghĩa. Cụ Lê Văn Hoan vẫn nhớ như in thời kỳ quê hương thực hiện mô hình sản xuất hợp tác xã vào thập niên 80 của thế kỷ 20. Tổng Bí thư Lê Duẩn khi về thăm quê đã đến tận các hộ gia đình tìm hiểu mức sống, tâm tư, tình cảm của bà con. Cụ Hoan nhớ lại:
- Sau khi nghe bà con phản ảnh, tìm hiểu thực tế khả năng của địa phương, chú Lê Duẩn gọi chúng tôi lên. Lúc bấy giờ tôi là Bí thư Huyện ủy Triệu Phong. Chú lưu ý lãnh đạo địa phương tuyệt đối tránh kiểu làm việc “đầu voi đuôi chuột”. Trên tỉnh phát động, đề ra chủ trương rầm rộ, đặt ra các mục tiêu lớn nhưng nguồn lực trong dân còn hạn hẹp, nhất là về tư duy, cách làm. Khi thực lực chưa hội tụ, điều kiện chưa chín muồi mà muốn làm lớn, làm nhanh thì thất bại là cái chắc. Sau khi làm việc chung với lãnh đạo tỉnh, chú gọi riêng tôi vào phòng, nói thân tình: “Mi coi lại cách làm. Triệu Phong làm điểm thì phải có kết quả sớm. Làm đến mô, chắc đến đó. Phải đi từ thực tiễn cơ sở chứ đừng ngồi trên cao hô hào xuống, không được mô”. Chúng tôi như sáng ra. Lãnh đạo huyện, tỉnh ngồi lại bàn biện pháp. Phải quản lý chắc, không để tình trạng làm tràn lan, ồ ạt, quản lý không nổi, hiệu quả kém là rất gay. Tư tưởng và những bài học thực tiễn lãnh đạo của chú Lê Duẩn đến nay vẫn vẹn nguyên tính thời sự và giá trị.
Ông Phan Văn Ngọc, tộc trưởng dòng họ Phan ở làng Nhan Biều, xã Triệu Thượng tâm sự rằng, tài sản vô giá của dân làng các dòng họ vùng đất này chính là linh khí, hào kiệt của các bậc hiền tài tích tụ, tỏa sáng từ hơn 700 năm qua, gắn liền với sự ra đời, phát triển của vùng đất này. Đồng chí Lê Duẩn là một trong những tấm gương tiêu biểu nhất. Dòng họ Phan ở đây có một người học trò xuất sắc của đồng chí Lê Duẩn, đó là nhà cách mạng quá cố Phan Kiệm, nguyên Bí thư đầu tiên của Tỉnh ủy Đắc Lắc, nguyên Tư lệnh kiêm Chính ủy Đặc khu Sài Gòn-Chợ Lớn, Phó bí thư Khu ủy Sài Gòn-Chợ Lớn. Được đồng chí Lê Duẩn dìu dắt, giúp đỡ, Phan Kiệm tham gia hoạt động cách mạng từ những năm 1930-1931, lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa giành chính quyền tháng 8-1945 ở Buôn Ma Thuột. Giai đoạn đồng chí Lê Duẩn hoạt động ở vùng bưng biền miền Tây Nam Bộ lãnh đạo phong trào kháng Pháp, Phan Kiệm là người trợ lý gần gũi, là cánh tay giúp việc đắc lực. Hậu duệ của cụ Phan Kiệm ở quê hương coi đồng chí Lê Duẩn như người ông, người cha tinh thần của mình.
Bên dòng Thạch Hãn huyền thoại, ngọn lửa truyền thống được nhóm lên bởi hào khí cha ông, được tiếp nguồn nhiên liệu tích tụ ngàn đời từ lòng đất, luôn cháy mãi. Những giá trị to lớn của truyền thống hiện hữu từ nếp nghĩ, việc làm rất đỗi bình dị của người dân trong cuộc sống thường ngày.
Ký của PHAN TÙNG SƠN