Chúng tôi đi lúc đó là vào trước Tết Nguyên đán khoảng 20 ngày. Sau mấy ngày đi ô tô vào đến Quảng Bình thì bắt đầu leo dốc từ làng Ho để vượt Trường Sơn. Cuộc sống cơm ăng-gô, nước bi đông bắt đầu từ đây. Những ngày đầu, khí thế vẫn hào hứng lắm, chưa biết mệt là gì, ngày Mồng Một Tết Nguyên đán vẫn hành quân. Quá trưa tới trạm nghỉ chân. Bấy giờ mới có thời gian nhớ về Tết cổ truyền của dân tộc.

Thế là mọi người, ai có thứ gì đưa ra thứ đó để mừng xuân. Có người gói ghém cẩn thận gói mứt dừa, dành từ trước lúc lên đường bây giờ mới giở ra, người thì mứt lạc, tôi thì có gói mứt gừng, mẹ tôi làm, vợ tôi đưa cho tôi hôm về phép cuối cùng. Có người còn giữ được cả chè Hồng Đào và thuốc lá Tam Đảo. Vật chất đơn sơ nhưng không khí đón xuân trên đường Trường Sơn thật vui vẻ.

Về đến Tây Ninh, tôi và một số anh em bị sốt rét, ốm yếu đến sau không được vào Tiểu ban giáo dục R vì tình hình mới, Mỹ đã trực tiếp đổ quân vào miền Nam tiến hành “Chiến tranh cục bộ”. Sau khi tập huấn ba ngày và nghe rõ lý do, chúng tôi được chuyển sang công tác tại Cục Chính trị Quân Giải phóng miền Nam, gồm hơn 10 người. Hầu hết chúng tôi được phân công làm phóng viên Báo Quân Giải phóng. Riêng anh Phan Cung Tùng vì biết tiếng Anh nên được phân công sang công tác ở Phòng Địch vận.

Học tập nghiệp vụ báo chí được mấy ngày, tôi và anh Trương Quốc Tụy được giao nhiệm vụ đi thường trú ở Phân khu 1. Sau ít ngày, tôi được cử xuống Bà Rịa-Biên Hòa công tác, còn anh Trương Quốc Tụy thì đi Bình Dương. Đây là lần đầu tiên tôi được xuống chiến trường, sống với cán bộ, chiến sĩ và đồng bào miền Nam. Nhiều cái còn chưa quen và bỡ ngỡ lắm. Tôi phải cố gắng học hỏi để hòa nhập với anh em chính gốc quê Bà Rịa-Biên Hòa, nhất là phong tục tập quán địa phương, đặc biệt tìm hiểu về chiến công của họ để viết bài. Tôi xuống Tiểu đoàn 445-đơn vị chủ lực của địa phương có nhiều thành tích trong chiến đấu. Đầu xuân năm 1965, tiểu đoàn đánh thắng một trận lớn ở chân núi Đá Giăng, diệt hơn 120 tên địch, bắt sống nhiều tên làm tù binh, thu nhiều vũ khí. Nhân dịp sắp đón Tết Nguyên đán, tôi liền viết luôn bài “Mùa xuân kể chuyện Đá Giăng”. Tôi đọc cho họ nghe, rồi gửi về đăng ở tập san của tỉnh đội. Khi tập san gửi đến từng đơn vị, nhiều anh em được đọc bài này, có nói đến tên và chiến công của họ, làm họ rất khoái chí, vì trước nay chưa ai nói tới, nay lại được nêu lên báo, mặc dù chỉ là báo của tỉnh. Thế là Tết năm 1967, tôi được giữ lại ăn Tết với anh em miền Nam của Tiểu đoàn 445. Tôi được coi như khách đặc biệt, những ngày Tết ở đây, đến đại đội nào cũng được anh em lôi kéo, mời chào thân thiết như quen biết từ lâu: “Anh Sáu táp dô, táp dô...” (tôi là Sáu Thịnh). Anh em không gọi chính tên, mà chỉ gọi theo thứ thôi, theo kiểu miền Nam, để tỏ lòng mến khách. Năm đó, tôi được hưởng một cái Tết cùng các chiến sĩ miền Nam thật mới lạ. Tuy ở trong rừng nhưng vẫn có đầy đủ các loại thuốc lá Cô Táp, Cápxtăng, Ru Bi… rồi các loại rượu từ rượu đế (rượu trắng) đến rượu Rum, rượu Anít 45 độ, uống đến đâu nóng cổ đến đó... và ăn bánh tráng cuộn thịt lợn luộc, cùng với rau rừng. Đối với tôi, đó quả là một cái Tết đầy ấm cúng trong lòng những chiến sĩ quê hương Đất Đỏ-quê hương của anh hùng Võ Thị Sáu.

leftcenterrightdel

Phóng viên Đình Thịnh (đứng thứ năm, từ phải sang) cùng các cán bộ phụ trách và phóng viên Báo Quân Giải phóng lúc chia tay trước Tết Nguyên đán năm 1972 để bước vào Chiến dịch Nguyễn Huệ. Ảnh tư liệu

Rời Bà Rịa-Biên Hòa, tôi trở lại Tây Ninh, sau cuộc càn lớn Junction City, tình hình chiến trường ngày càng có sự biến chuyển lớn.

Lực lượng quân sự của ta đã lớn mạnh. Xuân Mậu Thân năm 1968 đã thực sự trở thành xuân “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”. Khí thế xuống đường thật rầm rộ. Tôi và anh Mai Bá Thiện được cử đi cùng với Công trường 7 (Sư đoàn 7). Đúng đêm Ba mươi Tết, đơn vị hành quân cắt Đường 13 để xuống Lái Thiêu, theo kế hoạch sẽ vượt qua cầu Bình Triệu để vào Sài Gòn. Nhưng ở đây Mỹ, ngụy đã tung lực lượng cả xe tăng và bộ binh ra ngăn chặn ta quyết liệt. Đội hình chúng tôi bị cắt làm đôi. Một nửa qua được Đường 13, một nửa còn phải nằm lại bên này, đúng vào lúc Giao thừa Tết Mậu Thân. Địch thả pháo dù sáng rực cả khu rừng chúng tôi đang trú quân. Pháo địch từ Lai Khê, Bến Cát, Chơn Thành thi nhau giội tới. Anh em phải ôm gốc cây chịu trận giữa đêm Giao thừa. Chúng tôi đã đón xuân năm đó bằng nước lã cầm hơi. Rất may không ai bị ăn quả "bắp chuối" (đạn pháo 105mm) nào của địch.

Sau hai đợt hành quân xuống Lái Thiêu để đánh vào Sài Gòn không thành, lại bị thương vong lớn (hơn 400 cán bộ, chiến sĩ hy sinh và bị thương trong một ngày tại Lò Chén), cả đơn vị phải lui về rừng củng cố. Tôi và anh Mai Bá Thiện cùng tất cả anh em phóng viên được gọi về gấp. Tâm trạng nói chung không còn lạc quan như lúc xuất quân. Trên đường về, Mai Bá Thiện, Đỗ Công Viện cùng một số anh em quay phim thuộc B8: Nguyễn Quế, Ngô Quang Đạt... và tôi còn nghêu ngao hài hước cho đỡ buồn: “Sài Gòn ơi! Ta hãy còn đây, ta chửa về đâu. Tiến về Sài Gòn giải phóng Cà Tum”. Nghĩa là quay trở lại nơi xuất phát.

Hai Tết Nguyên đán năm 1969, 1970, tôi đều đón xuân cùng cán bộ, chiến sĩ Công trường 9 (Sư đoàn 9). Nhưng vui nhất là Tết năm 1970, vào chiều Ba mươi Tết, người dân gói bánh tét, bánh chưng, mổ lợn để chuẩn bị ăn Tết thì được tin bộ đội phòng không bắn trúng máy bay trinh sát của địch. Chiếc máy bay bị thương nặng, không thể cất cánh lên được, cứ thế gầm rú ào ào, rồi lao thẳng về phía ấp Trà Cao, sát biên giới Campuchia, khu vực tây nam núi Bà Đen. Thế là tất cả cán bộ, chiến sĩ từ các cánh rừng gần đó túa ra bao vây chiếc máy bay. Mấy tên Mỹ trên máy bay còn sống, cố tình chống trả, nhưng đã bị các chiến sĩ ta vây chặt bốn phía, không thể chạy thoát. Nếu ta bắn B-40 thì tiêu diệt được ngay. Nhưng theo lệnh của trên không được bắn chết, cứ bắn khiêu khích, nhử cho chúng bắn hết đạn. Cuối cùng ta hô xung phong, bắt sống được cả ba tên giặc lái trên máy bay. Trong đó có một tên thiếu tá chỉ huy, một tên trung sĩ thợ máy và một tên trung sĩ lái máy bay. Tôi đã đến gặp ba tên giặc lái này, trực tiếp thẩm vấn chúng và khai thác tài liệu để viết bài. Thế là Tết năm đó, ngoài niềm vui có bánh chưng, bánh tét còn có thêm niềm vui bắt được giặc lái Mỹ, mừng chiến thắng đầu xuân.

Năm 1970, tôi đã được tham gia cùng với Trung đoàn Đồng Xoài (Sư đoàn 9) đánh những trận đầu tiên sang Campuchia ở Cờ Rết, Cờ Ra Bao, Đầm Be-Oắt Thơ Mây... gần khu vực Cầu Cháy, cách thị trấn Sơ Lông chừng hơn chục cây số, thuộc khu vực giáp ranh giữa hai tỉnh Công Pông Chàm và Cờ Ra Chê của Campuchia. Cũng từ đó, tổ phóng viên Báo Quân Giải phóng chúng tôi được chuyển cứ sang đất Campuchia.

Tết năm 1971, tổ phóng viên chúng tôi được đón xuân trong khu rừng Bà Ma, thuộc tỉnh Cờ Ra Chê với một cái Tết thật sung túc. Nhờ hôm đi lấy măng rừng, nhặt được ít phế liệu xe máy, bị bom đánh hỏng gãy khung, gãy vành, chỉ có bộ máy nổ còn dùng được, tháo ra đem bán cho bà con thị trấn Sơ Lông nên có tiền mua được một con lợn. Khênh lặc lè từ phum Bà Ma về cứ. Cả tổ báo đều sáng mắt lên. Lâu lắm rồi, Tết này mới có thịt lợn gói bánh chưng. Lại có cả tiết canh lòng lợn nữa. Anh em tha hồ xì xụp bữa cháo lòng chiều Ba mươi Tết.

Năm 1972, đa số anh em phóng viên Báo Quân Giải phóng đều không được ăn Tết. Tất cả đều phải xuống chiến trường để chuẩn bị bước vào Chiến dịch Nguyễn Huệ đầu xuân năm 1972. Riêng tôi, Ngọc Lưu và cậu Trọng, anh nuôi, chưa đi chiến trường, vì còn phải đợi đoàn cán bộ của Bà Rịa-Biên Hòa đang dự Hội nghị dân quân của R xong mới đi cùng xuống Bà Rịa. Thế là ba chúng tôi lại có dịp ăn Tết tại cứ Đầm Ray Phông thuộc tỉnh Cờ Ra Chê - Campuchia, trước khi đi chiến trường. Tuy vắng vẻ quạnh hiu trong một khu rừng mênh mông, ba chúng tôi vẫn tổ chức một cái Tết khá đàng hoàng. Có bàn thờ Tổ quốc, có cờ đỏ sao vàng, cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng tự cắt dán. Có mâm ngũ quả và bánh chưng tự gói. Anh Sáu Tòng, Trưởng phòng Tuyên huấn Cục Chính trị, sau Tết ra thăm B6 Văn công và B8 Điện ảnh chiếu phim, có ghé thăm chúng tôi rất ngạc nhiên.

Năm 1973 là Tết ký Hiệp định Paris, cả đơn vị không kịp ăn Tết để chuyển cứ từ Campuchia về Lộc Ninh. Tết năm 1974 là cái Tết đi đánh địch, chống lấn chiếm vùng ven. Tết năm 1975 là cái Tết đón xuân trong rừng Tà Tê-Lộc Ninh, Tết cuối cùng ở rừng trước khi về giải phóng Sài Gòn. Tết năm 1976 là Tết hoàn toàn giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

ĐÌNH THỊNH - Nguyên phóng viên Báo Quân Giải phóng