QĐND - Chiến dịch Lam Sơn 719 (hay cuộc xâm lăng Hạ Lào/Laos invasion) được phương Tây xem là bước ngoặt trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Quân lực Mỹ sẽ khởi đầu bằng chiến dịch cục bộ, mang tên Đi-uây Ca-ny-on II (Dewey Canyon II), để đặt nền cho lính Việt Nam Cộng hòa (VNCH) trực tiếp thực hiện cuộc xâm lăng này, được Sài Gòn gọi là Lam Sơn 719. Đây cũng là chiến dịch tiến công chiến lược cuối cùng tại Việt Nam có quân lực Mỹ tham chiến.

Dự án “hoành tráng”

Chính trường nước Mỹ ngay trước ngưỡng cửa năm 1971 chịu ảnh hưởng của trào lưu chống chiến tranh, đã bó tay Nhà Trắng bằng đạo luật cấm lục quân Mỹ và cố vấn Mỹ, từng tung tác được ở Cam-pu-chia ngay trước đó, sang tác chiến ở Lào.

Nhưng giới sử học Mỹ cho rằng bộ đôi Ních-xơn (Nixon) và Kít-xinh-giơ (Kissinger) vẫn rất quyết liệt trong các hành động chiến tranh, trong khi tiếp tục “nước đôi” trên bàn hội nghị.

Trong hồi ký của mình, Kít-xinh-giơ gọi Lam Sơn 719 là một “dự án hoành tráng trên giấy tờ” (splendid project on paper). Các trực thăng Mỹ sẽ bay đến từ phía đông, cài đặt những hỏa điểm lập tức hoạt động trên những đồi núi gồ ghề của xứ Lào. Đồng thời, những đoàn quân bọc thép sẽ xốc tới, hợp binh với quân đổ bộ đường không …

Chỉ sau khoảng một tuần soạn thảo, ngày 21-1-1971, các tướng chịu trách nhiệm lập kế hoạch là Su-thơ-lan (J.Sutherland) và Hoàng Xuân Lãm đã đệ trình lên MACV kế hoạch hiệp đồng quân Mỹ và quân VNCH trong cuộc hành binh Hạ Lào. Tư lệnh Mỹ A-bram (Abrams) lệnh cho sư đoàn không vận 101 và Bộ chỉ huy phối thuộc của Mỹ tại Đà Nẵng chuẩn bị tác chiến trong 9 ngày.

"Bám càng". Ảnh: Truyền thông phương Tây.

Giai đoạn I của cuộc xâm lăng Hạ Lào (kế hoạch Đi-uây Ca-ny-on II), thuộc phần trách nhiệm của MACV. Nó được Ních-xơn thông qua hôm 18-1-1971, biểu hiện thành cuộc hành binh của Lữ đoàn I, sư đoàn BB cơ giới số 5 Hoa Kỳ chiếm lại Khe Sanh, căn cứ mà quân Mỹ từng phải triệt thoái năm 1968, để thoát ra khỏi cuộc phong tỏa kéo dài.

Đây là một đơn vị tăng cường gồm 5 tiểu đoàn Mỹ, có một tiểu đoàn tăng (Tiểu đoàn 1, Trung đoàn tăng 77), các tiểu đoàn BB cơ giới (Tiểu đoàn 1 thuộc Trung đoàn BB11 cộng Tiểu đoàn 1 thuộc Trung đoàn BB 61), quân cơ động đường không (phi đội 3, Trung đoàn kỵ binh bay số 5, và Tiểu đoàn 3, Trung đoàn bộ binh không vận số 187). Lữ đoàn này còn được tăng cường bởi hai tiểu đoàn công binh Mỹ số 14 và 27, làm nhiệm vụ mở thêm một làn đường nữa trên Đường số 9 để bảo đảm giao thông thông suốt liên tục cho cả hai chiều. Ngày 30-1-1971, một chiếc xe ủi to đùng của Tiểu đoàn CB 14 dẫn đầu đoàn công - voa đầu tiên chạy trên Đường 9.

Cũng trong những ngày này, Lữ đoàn 7 của Sư đoàn 23 Mỹ được tăng cường cho chiến dịch Đi-uây Ca-ny-on II, đặt dưới quyền chỉ huy của tư lệnh Sư đoàn 101.

Phần Mỹ chịu trách nhiệm trong kế hoạch này khá thông đồng bén giọt. Hôm 31-1 một số tiểu đoàn Mỹ đột kích Khe Sanh từ trên không, rồi đổ bộ xuống địa hình này. Tướng Su-thơ-lan cho rằng cuộc hành quân vào Khe Sanh là một cuộc chạy đua mà phần thắng thuộc về quân Mỹ. Thật khác với ý kiến học giả phương Tây, rằng Khe Sanh dường như đã được Bắc Việt để ngỏ, “giúp” đối phương dấn sâu hơn vào chốn “đoạn trường”.

Bộ trưởng Quốc phòng Le-đơ (Laird) dường như dự cảm được điều gì khi ông nói với báo chí vào đầu tháng 2-1971, rằng “những ngày tháng gay go đang đợi chúng ta”(1).

Ai Lao đi dễ khó về

Nhưng yếu tố “thiên thời” đã bị mất khi thời tiết xấu ảnh hưởng trực tiếp tới chuẩn bị đường không, do quân Mỹ thực hiện, trong các ngày 6, 7, 8 tháng 2. Tuy nhiên, ngày 8-2, quân VNCH vẫn lao vào “Lam Sơn 719”, con đẻ của hai Tổng thống Ních-xơn và Nguyễn Văn Thiệu.

Những gì diễn ra tiếp theo gợi nhớ báo cáo của tướng A-bram cho Đô đốc Mắc-kên (Mc Cain), từ hôm 1-12-1970, rằng ở Nam Lào, bộ binh, pháo binh và thiết giáp của đối phương là mạnh, còn hệ thống phòng không là “ghê gớm” ...

Theo Kít-xinh-giơ trong sách Những năm ở Nhà Trắng (White House years, NXB Boston, 1979), ngay từ 12-2-1971, quân Mỹ không biết rằng Nguyễn Văn Thiệu đã ra mật lệnh cho dừng cuộc hành binh, vì quân Sài Gòn đã thương vong tới 3000 người.

Dù quân Mỹ và quân Sài Gòn hành động riêng rẽ, chẳng hiệp đồng với nhau (“conducted separately and in isolation by the Vietnamese and the Americans”, theo sách “Thử thách Việt Nam cộng hòa”, South Vietnam on Trial, NXB Boston, 1984), quân Mỹ vẫn nỗ lực tác chiến. Chẳng hạn, chỉ hai tiểu đoàn tăng cường của binh đoàn Pháo số 108 thôi, đã bắn sang Lào khoảng 210 ngàn quả đạn từ các trận địa dọc biên giới, kể cả từ Khe Sanh.

Pháo đài bay B52 cũng rải thảm 1.358 lần, ném xuống Hạ Lào tới 32 ngàn tấn bom trong thời gian chiến dịch.

Còn các trực thăng chiến đấu (gunship) của trung đoàn pháo binh không chiến (Aerial Field Artillery) số 77 của Sư đoàn không vận 101 đã trực tiếp tham chiến, hỗ trợ quân VNCH, bất chấp “giới hạn ranh giới quốc gia” tới 24 ngàn lượt, trên tổng số 34 ngàn lần cất cánh trong toàn chiến dịch.

Ngoài ra, máy bay lên thẳng của kỵ binh bay Mỹ tham chiến tới 12 ngàn lần/chiếc trên tổng số 18 ngàn lần cất cánh. Tỷ lệ bay dưới màn hỏa lực của cao xạ đối phương của các chuyến bay chở quân của Mỹ là 34.000/51.000, còn của các chuyến tiếp tế do phi công Mỹ thực hiện là 19.000/59.000 lượt, trong toàn chiến cuộc.

Thủy quân lục chiến Mỹ bay tới 2000 chuyến trực thăng chiến đấu, 3000 chuyến khác chuyển quân Sài Gòn (lift sorties); cùng 950 chuyến máy bay cánh cố định, ném xuống 2.600 tấn bom đạn. Không quân chiến thuật Mỹ gánh vác tới hơn 9000 chuyến bay, ném xuống tới 14.000 tấn bom. Tần suất bay hằng ngày ở Lào trong chiến dịch này lên tới hơn trăm lần chiếc máy bay Mỹ các loại, cao đỉnh là ngày 8-3 với 277 chuyến.

Ngược với dự báo của quân báo MACV, rằng cuộc hành binh sẽ chỉ gặp “đụng độ lẻ tẻ”, rằng quân đối phương không chỉ có khoảng 3 trung đoàn và 8 binh trạm... trên thực tế, khoảng 8 trung đoàn tăng cường Bắc Việt và Pa-thét Lào đã ém quân chờ sẵn, cùng 20 tiểu đoàn cao xạ với khoảng từ 170 đến 200 khẩu pháo phòng không.

Hỏa lực cao xạ dày đặc điều khiển bởi ra-đa và hỏa lực bộ binh đã vây bọc tất cả các loại máy bay Mỹ. Các máy bay cánh cứng chỉ hoạt động ở mực bay cao, nhưng theo học giả Pra-đốt (Prados), Mỹ vẫn mất 7 chiếc và 4 phi công, trong khi chính phủ Mỹ chỉ thú nhận có 5 chiếc bị hạ. Một chiếc C130 khác bị tên lửa Bắc Việt hạ trên vùng trời Đà Nẵng.

Các kíp bay của trực thăng Mỹ đã phải chấp nhận liều mạng ở mức cao nhất. Họ đã vượt xa các phi đội của Sài Gòn, cho dù trực thăng VNCH đã được chở tới 8000 quân và sơ tán hơn 3.500 lính bị thương. Tổn thất của Sài Gòn là 7 chiếc trực thăng. Chính phủ Mỹ thừa nhận mất 82 trực thăng của các tiểu đoàn cánh quạt (chopper), nhưng làm thinh về 26 chiếc khác (cũng đang phục vụ chiến dịch) thì bị rơi trên đất Nam Việt Nam, cũng như 10 chiếc nữa rơi do tai nạn. Một báo cáo chính thức gần đây thừa nhận Mỹ mất tới 118 trực thăng ở Lào, và 22 chiếc trên đất Nam Việt Nam do hỏa lực của đối phương. 618 máy bay lên thẳng khác bị hư hỏng trong chiến dịch này.

Tổn thất về người của Hoa Kỳ, theo quân sử Mỹ là 215 binh lính chết 1.149 bị thương, 38 mất tích.

Được xem là kiến trúc sư của kế hoạch đánh sang Lào năm 1971, nhưng nay nhìn lại, Kít-xinh-giơ lại cho rằng nó “hoàn toàn không phù hợp với thực tiễn (chiến tranh) ở Việt Nam”.

Thả diều cắt dây?

Cho dù điểm đến chiến dịch Lam Sơn 719 là Sê-pôn, đã không có dấu hiệu gì về việc quân Sài Gòn đã tới mục tiêu này, trừ báo cáo của vài toán trinh sát. Lý do là vì không có sẵn sân bay nào để làm bến đỗ cho máy bay Mỹ đổ hàng tiếp vận xuống ...

Học giả Mỹ cũng nhận thấy điều luật cấm cố vấn Mỹ sang tác chiến tại Lào đã bị vi phạm. Đã lộ chuyện một chỉ huy quan trọng của lính thủy đánh bộ Sài Gòn bỏ chạy. Viên cố vấn Mỹ của đơn vị này đã phải vừa dỗ dành mãi để ông ta quay về sở chỉ huy, vừa phải trực tiếp chỉ huy sư đoàn lính thủy Sài Gòn ấy trong thời gian “vắng chúa”.

Ngày 20-3, sau khi quân Sài Gòn bỏ tiền đồn ở A Lưới, Mỹ đã thực hiện một nỗ lực quân sự phi thường với 270 lượt máy bay cánh cố định, 1.388 chuyến trực thăng chiến đấu, 11 lần chiếc B52 rải thảm. Nhưng hướng đến của quân VNCH đã lâu không còn là Sê-pôn, họ biến thành một ngọn triều chảy ngược lại, theo hướng về Nam Việt Nam, không thể chặn lại.

Theo sử gia Pra-đốt, một số lính Sài Gòn tuyệt vọng đến mức bám vào càng máy bay lên thẳng của Mỹ để tìm đường tháo thân. Tấm ảnh này, theo truyền thông, đã trở thành biểu tượng của cuộc “Việt Nam hóa” của Mỹ trong mắt thế giới.

Báo Times ngày 15-3-1971 dẫn một bài báo của tờ Xây dựng ở Sài Gòn, cho rằng quân đội VNCH cáo buộc Mỹ đã “thả con diều rồi cắt dây buộc nó” (the US was guilty of “flying a kite and then cutting its string.”) trong cuộc hành quân Lam Sơn 719.

Lê Đỗ Huy tổng hợp

(1) http://www.time.com/time/magazine/article/0,9171,904773,00.html#ixzz1D00Yd64y