Cựu tử tù Hoàng Thanh Chúc đã kể lại những năm tháng khắc phục khó khăn cùng việc vượt qua nỗi đau có 3 người thân hy sinh để hoàn thành tốt nhiệm vụ:

“...Tôi sinh năm 1930, trong một gia đình nghèo làm nghề đưa đò ở bến Long Thọ, xã Phong Thủy, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế. Tôi hồi nhỏ tên là Hoàng Thị Chút. Đời sống gia đình tôi rất túng thiếu. Năm lên 8 tuổi, tôi phải đi ở đợ cho địa chủ Trác cùng làng. Người còi cọc nhưng suốt ngày phải đeo bế đứa con gái nhỏ của địa chủ, lại lo rau bèo, cám bã cho đàn lợn hàng chục con, vậy mà tôi vẫn không vừa lòng mụ vợ địa chủ độc ác. Tấm lưng gầy không mấy khi hết vết lằn roi vọt. Năm 13 tuổi, không chịu nổi cực nhục, tôi bỏ trốn về nhà, lên rừng lấy củi hoặc vào các vườn mua trái cây về bán ở chợ. Năm 14 tuổi, tôi theo cô vào làm ở Sở vôi Long Thọ. Nạn đói và dịch bệnh năm 1945 đã cướp đi 3 người em của tôi.

Ngày 23-8-1945, cách mạng thành công ở Huế. Vừa độ tuổi trăng tròn, lòng tôi vui như mở hội. Cha mẹ tôi vào Hội Phụ lão cứu quốc. 3 chị em tôi (Hoàng Thị Gái, Hoàng Thị Gái Em, Hoàng Thị Chút) tham gia Hội Phụ nữ cứu quốc, do chị Thỉu phụ trách. Nhưng chỉ được một thời gian, quân Pháp lại kéo đến. Các cán bộ phải rút lên cứ. Cha tôi kiếm cớ làm nghề đốt than, lên rừng tìm cán bộ; có lần lạc trong rừng hơn 10 ngày đêm nhưng cuối cùng đã tìm bắt liên lạc được với cách mạng. Gia đình tôi lúc này đã sang cư trú ở Giáp Hạ, huyện Hương Trà, trở thành cơ sở kháng chiến. Chúng tôi hoạt động bí mật dưới vỏ bọc là dân đưa đò ở các bến Long Thọ, Nguyệt Biều, Long Hồ, Giáp Hạ.

leftcenterrightdel
Bà Hoàng Thanh Chúc (Hoàng Thị Chút). Ảnh do nhân vật cung cấp

Cuối năm 1946, cha tôi và hai chị đi hoạt động thoát ly, còn mẹ và tôi ở lại giữ cơ sở. Năm 1947, tôi được giao nhiệm vụ cùng chị Gái (con ông Hoài) cảnh giới cho công an ta phục kích, bắn chết tên Huê, huyện trưởng ác ôn huyện Hương Trà khi tên này về quê ăn giỗ. Sau trận này, có kẻ chỉ điểm, tôi bị địch bắt. Không có tang chứng cụ thể nên sau một tuần giam giữ, tra khảo, chúng phải thả tôi về. Cuối năm 1947, lấy tên là Hoàng Thị Đông, tôi tham gia Đội biệt động thành Huế, ở Đại đội 1 do anh Tống Hồ Trinh làm Đại đội trưởng. Nhưng tôi vẫn làm nhiệm vụ chở đò để đưa đón cán bộ qua sông và nắm tin tức địch, cung cấp cho đơn vị.

Tháng 3-1948, đơn vị chúng tôi tổ chức một trận đánh nổi tiếng ở bến đò Ba Bến (Giáp Hạ-Lưu Biểu-Eo Bầu). Cũng như mọi lần, chúng tôi phải chở bọn địch ở đồn Giáp Hạ qua sông, sang lùng sục, tuần tiễu bên Lưu Biểu. Chúng đi hai thuyền đầy. Thuyền của mẹ con tôi chở 15 tên, cả Tây và lính ngụy. Đơn vị chúng tôi bí mật phục kích bên kia sông. Khi đò gần cập bờ, bộ đội ta nổ súng. Lợi dụng lúc địch đang nhốn nháo, tôi làm cho thuyền tròng trành thêm và thuyền lật, hất bọn chúng xuống sông. Trận này địch bị diệt hơn chục tên, trong đó có tên quan hai Pháp. Mẹ tôi bị thương và được anh em đưa về cơ sở bí mật để chạy chữa.

Chiều hôm đó, tôi nhận lệnh đơn vị về nắm tình hình và kết quả trận đánh. Nhưng tôi mới về nhà được khoảng mươi phút thì bọn địch ập vào bắt. Cũng may trong người có ít tài liệu, tôi đã giấu trước vào chuồng lợn, chúng không tìm thấy. Địch đưa tôi vào đồn Giáp Hạ và tra tấn dã man. Chúng đánh tôi mềm người, gí điện vào chỗ hiểm, đổ nước xà phòng vào miệng, vào mũi, làm tôi chết đi sống lại nhiều lần nhưng tôi một mực không khai vì luôn nhớ lời dặn của cha tôi: “Làm cách mạng phải biết hy sinh mình, bảo vệ cơ sở, dù có bị địch đánh đập, tù đày cũng ráng chịu, thà chết không được đầu hàng”.

Không moi được tin tức gì ở tôi nhưng địch vẫn đưa tôi ra xử ở tòa án binh Huế. Chúng khép tội tôi là phần tử nguy hiểm, bị bắt lần thứ hai nên tuyên án tử hình và cũng “nhân đạo” cho 15 ngày chống án. Là con gái mới 18 tuổi, bị kêu án tử hình, nhiều anh chị em tù và đồng bào Huế rất thương, đã đấu tranh đòi trả tự do cho tôi nên địch đưa tôi vào tòa án binh Sài Gòn xử lại. Ở đây, chúng vẫn y án tử hình. Tôi được đồng bào Sài Gòn-Chợ Lớn và anh chị em tù chính trị đấu tranh quyết liệt ủng hộ. Địch không dám xử bắn tôi và chúng lại đưa tôi ra Huế xử lần thứ ba. Lần này, chúng hạ xuống án tù chung thân. Tôi bị chúng cạo trọc đầu, nhốt vào xà lim, qua các nhà lao Thừa Phủ, Tòa Khâm, Đà Nẵng. Cuối cùng, chúng đưa tôi vào Sài Gòn, giam ở khám Chí Hòa. Lúc đó là năm 1951. Trong thời gian này, tôi nhận được tin cha, mẹ và chị gái Hoàng Thị Gái Em đã hy sinh trong khi làm nhiệm vụ.

Tháng 10-1954, sau Hiệp định Geneva, tôi cùng nhiều đồng chí được địch đưa ra trao trả ở Sầm Sơn và ở lại tham gia Ban đón tiếp thương binh, bộ đội miền Nam tập kết. Ở đây, tôi đã quen anh Phan Thanh Châu, bộ đội miền Nam tập kết, quê ở Phú Yên. Năm 1957, chúng tôi cùng nhau xây dựng gia đình. Ra miền Bắc, tôi tiếp tục ở lại xây dựng quân đội, ở Đại đội 162, Tiểu đoàn 16, Trung đoàn 55, sau chuyển về Cục Nông binh, xây dựng Nông trường An Khánh. Năm 1958, tôi được phong quân hàm hạ sĩ và được bầu là Chiến sĩ thi đua của trung đoàn.

Tháng 10-1960, tôi chuyển ngành ra Nhà máy Thuốc lá Thăng Long. Trong những năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, dù đã có 3 con, chồng tôi lại thường xuyên đi chiến đấu, công tác xa nhà, tôi vẫn phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ. Làm tổ trưởng sản xuất, tham gia đội tự vệ nhà máy, được bầu vào Thường vụ Công đoàn nhà máy. Năm 1968, tôi được bầu làm đại biểu Hội đồng nhân dân TP Hà Nội khóa IV (1968-1971). Năm 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, tôi trở về thăm quê sau gần 30 năm xa cách. Lúc đó, gia đình tôi chỉ còn lại chị gái Hoàng Thị Gái, người em dâu cùng các cháu. Năm 2015, mẹ tôi được truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng...”.

TÔ BỈNH 

(Ghi theo lời kể của chiến sĩ cách mạng bị địch bắt tù đày Hoàng Thanh Chúc (tức Hoàng Thị Chút))