Vừa vào đến Binh trạm 35, anh Nguyễn Ngọc Thảo, Trưởng phòng Quân y (sau này là Trung tướng, Cục trưởng Cục Quân y, Tổng cục Hậu cần) từ Bộ tư lệnh 559 xuống bàn bạc, giao nhiệm vụ ngay. Anh giao tôi phụ trách Đội điều trị 35, trước mắt mở tại đây các lớp bồi dưỡng trong vòng 3 tháng về chuyên môn phẫu thuật sọ não, cột sống cho các bác sĩ trong toàn tuyến.
Đội điều trị 35 đóng trong một khu rừng già cách không xa cơ quan binh trạm. Tôi mau chóng làm quen với anh em trong đội. Anh Nguyễn Văn Nên là chính trị viên của đội, hiền lành, vui vẻ. Y sĩ Chánh người Nam Bộ dáng to cao, hoạt bát, trước ở Sư đoàn 305, thành thạo về ngoại chung. Bộ phận dược có cô Băng dược sĩ trung cấp. Lực lượng y tá 15 người, họ còn là chủ lực trong đào hầm, sửa sang nghĩa trang, gùi gạo, gùi thuốc... Sau khi tôi ổn định công việc được chừng một tháng, các bác sĩ của Bộ tư lệnh 559 lục tục kéo về dự lớp bồi dưỡng cấp tốc kinh nghiệm xử lý vết thương sọ não và cột sống. Hằng ngày tôi lên lớp, các học viên đều rất chăm chú nghe giảng. Sau phần học lý thuyết cũng có phần thực hành là mổ sọ não chó. Anh em vào các bản heo hút của người Lào mua chó về làm thực nghiệm. Mỗi lần thực hành xong là đến cuộc liên hoan cho toàn lớp và đội điều trị. Tổng cộng trong hai năm đầu, chúng tôi mở được hai lớp cho 35 bác sĩ và một lớp riêng cho y tá bổ sung về các đội điều trị.
    |
 |
Những chiến sĩ thi đua của Đội điều trị 35 tháng 2-1971 tại Trường Sơn (Đội trưởng Trần Mạnh Chí thứ hai, từ trái sang). Ảnh tư liệu |
Tôi về Binh trạm 35 được khoảng một tuần thì máy bay B-52 đánh hủy diệt vào đội hình của Tiểu đoàn xe 59 vượt ngầm Bạc. Tất cả 6 đợt trong một ngày. Nhiều quả bom rơi vào khu vực đỉnh núi gần đội điều trị. Hôm đó, nhiều thương binh cấp cứu, có hai ca nặng phải mổ gấp trong đêm. Có thương binh Long bị mảnh bom băm nát bàn chân phải, như bình thường thì phải cưa chân ngay sợ nhiễm trùng máu. Nhưng tôi nghĩ còn nước còn tát, cố cứu lấy bàn chân quý giá ấy. Thế là tôi và y sĩ Chánh mổ, lọc sạch chỗ nát và bó bột, cố định chân, treo lên, hằng ngày hạ chân của thương binh xuống và nhỏ giọt kháng sinh liên tục vào chỗ vết thương. Khoảng một tháng, chỗ vết thương của Long đã ăn da non, có dấu hiệu phục hồi và sau này bảo tồn được chân cho anh.
Từ khi vào Trường Sơn, tôi trở nên “đa năng” hơn, ngoài mổ sọ não, cột sống, còn thực hiện cả các ca ngoại chung, ngoại phổi, chấn thương... Có một ca mổ não khá điển hình không thực hiện ở đội điều trị của tôi mà tại đội phẫu đường sông hạ lưu sông Bạc. Hôm đó, tôi và y sĩ Xuất, y tá Nôm và y tá Chắt mang đồ nghề, đeo súng AK lên đường, 3 ngày sau mới tới nơi. Anh thương binh tên Sơn bị mảnh bom vào đầu và đốt sống cổ đang trong tình trạng nguy kịch. Trong điều kiện chiến trường thiếu nhiều dụng cụ chuyên dụng, rất may là từ Bắc vào tôi đã có sẵn trong hành lý của mình mấy dụng cụ cơ bản với một bác sĩ mổ sọ não như: Kìm gậm sọ, dụng cụ vén não, đèn pin soi sâu. Trong 3 giờ liền, tôi và kíp mổ mới xử lý xong vết thương và thương binh đã tỉnh táo trở lại. Rồi anh được đơn vị đưa lên bè mảng theo sông Bạc trôi về bệnh viện tuyến sau.
Vừa từ trạm phẫu sông Bạc trở về, tối hôm ấy đã xảy ra một biến cố lớn, suýt xóa sổ cả đội điều trị của tôi. Đó là nửa đêm 20-3-1970, một khu vực rộng lớn xung quanh Binh trạm 35 bị B-52 ném bom rải thảm. Một đêm dồn toàn lực lo cho sự an toàn của thương binh, bệnh binh. Sáng ra mới thấy ở trung tâm đội điều trị xuất hiện một hố bom như cái ao làng, chỉ cách hầm chỉ huy của tôi chừng 5-6m!
Ngày nhận nhiệm vụ đi B, cấp trên quy định “sau một năm sẽ ra”. Nhưng tôi đã vào tới gần cuối tuyến Đường Hồ Chí Minh, ở đó cán bộ chuyên môn thiếu quá, đến 4 năm sau tôi mới được gọi ra Bắc. Sau này khi đã về lại Viện Quân y 103 (nay là Bệnh viện Quân y 103), tôi vẫn còn có nhiều duyên nợ cấp cứu, điều trị những thương binh, bệnh binh từng sống, chiến đấu trên tuyến đường Trường Sơn một thời máu lửa.
PGS, TS TRẦN MẠNH CHÍ