Khi ấy, mặc dù đã ở tuổi xưa nay hiếm nhưng bà vẫn còn khỏe mạnh và minh mẫn. Là một cán bộ phụ nữ cứu quốc, vừa là vợ, vừa là đồng chí của Bí thư Lê Văn Lương, bà Thuận được chồng chia sẻ nhiều câu chuyện, kỷ niệm về cuộc đời ông và những người cùng chí hướng.
Hôm đó, tiếp chúng tôi tại nhà riêng, bên lề câu chuyện về đồng chí Lê Văn Lương, bà Nguyễn Thị Bích Thuận còn cho chúng tôi xem những trang thư, dòng hồi ký mà sinh thời, đồng chí Lê Văn Lương ghi lại. Trong đó có những kỷ niệm với đồng chí Ngô Gia Tự (1908-1934)-nguyên Bí thư Xứ ủy lâm thời của Đảng bộ Nam Kỳ. Bà Thuận kể: “Anh Lương được gặp anh Ngô Gia Tự lần đầu vào năm 1929 ở Sài Gòn, khi các tổ chức cộng sản đang được xây dựng trong cả nước và được cùng sống trong một căn nhà nhỏ ở Đa Kao, nhà của một số công nhân làm bồi bếp trên các tàu chạy biển”.
|
|
Đồng chí Ngô Gia Tự (1908-1934). |
Sau ngày 3-2-1930, đồng chí Ngô Gia Tự là người lãnh đạo cao nhất của Đảng bộ Nam Kỳ, có trách nhiệm thống nhất các tổ chức Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng và Đông Dương Cộng sản Liên đoàn vào Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng thời chỉ đạo các chi bộ, đảng bộ mới được thành lập ở các địa phương về cách thức tuyên truyền, giáo dục quần chúng, bày cho thợ thuyền và dân cày cách thức đấu tranh từ thấp lên cao, đòi quyền lợi thiết thực hằng ngày.
Thời gian đầu, ban ngày, đồng chí Ngô Gia Tự đến bến tàu Nhà Rồng làm phu khuân vác, thực sự đi “vô sản hóa” theo nghị quyết của Đảng. Đồng thời qua đó, đồng chí tìm hiểu tình hình công nhân, nghiên cứu những thủ đoạn bóc lột của bọn chủ, tìm ra các hình thức và khẩu hiệu đấu tranh thích hợp. Các buổi tối và chủ nhật, đồng chí dành thời gian tiếp xúc với các cơ sở đảng và tổ chức khác. Theo đồng chí Lê Văn Lương, sở dĩ làm được như vậy vì đồng chí Ngô Gia Tự vốn rất khỏe và bền bỉ quyết tâm.
Ngày ấy, theo chủ trương của Đảng, đồng chí Ngô Gia Tự trực tiếp tổ chức và đứng giảng ở các lớp huấn luyện đảng viên. “Lớp học này sau được gọi là “Lớp học Ngô Gia Tự”, do Trung ương tổ chức để đào tạo cán bộ. Năm 1947, tôi vinh dự được gọi về học khóa 5 tại trường Đảng đóng ở Văn Lãng, dưới chân đèo Khế, phía Thái Nguyên. Anh Lê Văn Lương, vốn là học viên từng được đồng chí Ngô Gia Tự chỉ bảo, là giảng viên khóa học của tôi”-bà Bích Thuận nhớ lại.
Về lần dự lớp huấn luyện đảng viên của đồng chí Ngô Gia Tự đó, đồng chí Lê Văn Lương may mắn theo hết khóa học năm ngày. Ông kể lại trong hồi ký: “Khi lên lớp, anh Ngô Gia Tự đã nói về việc Pháp xâm lược nước ta cùng những áp bức, bóc lột tàn bạo; về nhiệm vụ của Đảng; việc đồng thời xây dựng Đảng phải xây dựng các hội quần chúng. Anh giải thích các vấn đề một cách rõ ràng, dễ hiểu, dù tất cả chúng tôi đều lần đầu tiên được học lý luận và đường lối cách mạng. Điều làm cho chúng tôi thích thú nhất, thích thú đến mừng rỡ, cảm thấy sung sướng như người từ trong bóng tối lâu ngày bỗng tìm được ánh sáng, ấy là khi anh nói về nguồn gốc sự đau khổ của những người thợ. Anh nói: Giai cấp thống trị đều bảo rằng: Người thợ bị nghèo đói là do số phận, do trời định ra như thế. Sự thật, đó là chúng ta bị đánh lừa. C.Mác đã phân tích một cách khoa học và chỉ ra rằng: Những người lao động bị nghèo đói chính là vì bị chủ bóc lột giá trị thặng dư. Chỉ có lao động mới làm ra của cải. Bởi vậy, sau này những người lao động đưa các tư liệu sản xuất chủ yếu làm tài sản toàn dân thì đó là những hành động công bằng, hợp lý nhất. Cũng chính vì vậy mà bọn tư bản, đế quốc căm thù, không đội trời chung với chủ nghĩa Mác, với chủ nghĩa cộng sản. Chúng dùng mọi thủ đoạn dã man, tàn ác hoặc tinh vi, xảo quyệt để tiêu diệt cách mạng vô sản. Nhưng C.Mác cũng đã chỉ ra cho chúng ta hiểu rằng: Trong cuộc đấu tranh giữa công nhân và tư bản, giai cấp công nhân có mất thì chỉ mất cái xiềng nô lệ, còn khi thắng lợi lại được cả thế giới…”.
|
|
Nhà lưu niệm đồng chí Ngô Gia Tự tại Bắc Ninh. Ảnh: ĐỨC TÂM |
Trong câu chuyện với chúng tôi, bà Bích Thuận không giấu nổi ánh mắt tự hào và hạnh phúc. Bởi dù không được trực tiếp nghe đồng chí Ngô Gia Tự giảng bài, nhưng bà lại được “học trò” của ông, sau này là chồng mình giảng về công tác cách mạng, “tuy khô khan nhưng lại vô cùng ý nghĩa”, khiến bà và bạn đồng học có những thay đổi cơ bản về nhận thức cách mạng. Bà nhớ như in lời kể của chồng về lớp học năm đó, sau khi tổng kết và yêu cầu anh em học viên phê bình, đồng chí Ngô Gia Tự đã căn dặn: “Các đồng chí cần nhớ: Làm cách mạng thì phải có hy sinh. Chúng ta phải vững vàng, kiên định, không bao giờ lùi bước. Trong cách mạng dân tộc dân chủ sẽ như thế, trong cách mạng xã hội chủ nghĩa sau này cũng vẫn thế-và có lẽ lại còn hơn thế. Bởi vì cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc cách mạng vô cùng mới mẻ. Trước đây giai cấp tư sản đấu tranh chống phong kiến, vẫn giữ bóc lột, áp bức, chúng lại được học cầm quyền ngay từ trong lòng chế độ phong kiến, thế mà chúng đã phải nhào lên sụp xuống mấy lần mới đứng vững. Giai cấp công nhân chỉ sau khi giành chính quyền mới bắt đầu được học cầm quyền, lại muốn xây dựng một xã hội hoàn toàn tốt đẹp, xóa hết chế độ người bóc lột người, thì sự nghiệp sẽ vô cùng phức tạp, khó khăn. Cho nên có thể có vấp váp sai lầm, có thể có lúc phải đi đường vòng, hoặc thất bại tạm thời, là điều khó tránh khỏi. Chỉ cần khi gặp cảnh ấy, bình tĩnh xem lại công việc, thành thật tự phê bình, sửa chữa sai lầm để tiếp tục tiến lên”.
Những lời dặn trên của đồng chí Ngô Gia Tự, sau này, ở Côn Đảo, đồng chí Lê Văn Lương được nghe nhắc lại ở những lớp huấn luyện đảng viên mà đồng chí Ngô Gia Tự được Đảng bộ nhà tù phân công phụ trách. Dưới đòn roi và sự tra tấn khắc nghiệt, tàn bạo của kẻ thù, người đảng viên kiên trung ấy vẫn giữ vững khí tiết và truyền lý tưởng cách mạng cho những người ở lại. Và như khẳng định của đồng chí Lê Văn Lương trong một bài phát biểu nhân kỷ niệm 60 năm Ngày thành lập Đảng: “Thật không ngờ những dự đoán của một trong các đồng chí sáng lập Đảng 60 năm về trước ngày nay lại trở thành linh nghiệm. Nhìn lại quá trình đấu tranh cách mạng 60 năm của Đảng, đã từng có những thời điểm mà tầm quan trọng của nó có tính chất quyết định đến cả sự nghiệp của Đảng, của dân tộc… Để hưởng ứng chủ trương của Trung ương, đề nghị tất cả cán bộ, đảng viên chúng ta cần đem những gì tốt đẹp nhất của mình đóng góp cho sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp của Đảng; thẳng thắn đấu tranh nội bộ để phát huy ưu điểm, khắc phục các khuyết tật hiện có; vừa đề cao cảnh giác đối với âm mưu phá hoại thâm độc của kẻ thù, vừa kiên quyết giữ vững các thành tựu đã đạt được, vừa đem hết tài năng sáng tạo theo tinh thần đổi mới…”.
Đồng chí Ngô Gia Tự (1908-1934) sinh tại làng Tam Sơn, huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh (nay là xã Tam Sơn, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh). Năm 1927, ông tham gia lớp huấn luyện chính trị do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc tổ chức tại Quảng Châu, Trung Quốc, sau đó về nước hoạt động. Ngày 17-6-1929, tại số nhà 312 phố Khâm Thiên (Hà Nội), đồng chí Ngô Gia Tự tham gia thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng-một trong 3 tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam. Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập, đồng chí Ngô Gia Tự được bầu làm Bí thư Xứ ủy lâm thời của Đảng bộ Nam Kỳ. Cuối năm 1930, đồng chí bị thực dân Pháp bắt tại Sài Gòn. Sau hơn hai năm giam giữ, thực dân Pháp đưa ông ra phiên tòa “đại hình đặc biệt” và đày ông ra Côn Đảo. Cuối năm 1934, ông cùng một số đồng chí tổ chức vượt ngục và mất tích ở biển. |
NGUYỄN VĂN VĨ