QĐND - Đã đôi lần gặp Đại tá Hoàng Quang Linh, nguyên Viện trưởng Viện Kỹ thuật thông tin, đơn vị tiền thân của Trung tâm Kỹ thuật thông tin công nghệ cao (KTTT CNC)-Binh chủng Thông tin liên lạc (TTLL) trong các hoạt động truyền thống của đơn vị. Lần nào cũng vậy, tôi đều thấy ông giữ thói quen nói vo. Ông bảo: “Mình không có khiếu viết lách theo kiểu chiết tự, thôi thì cứ kể những cái có sẵn ở trong đầu mình thôi”.
Tháng 9 này, kỷ niệm 40 năm Ngày truyền thống của Trung tâm KTTT CNC-đơn vị mà ông đã gắn bó suốt 33 năm quân ngũ từ khi trung tâm chưa tròn một năm tuổi. Vậy là, tôi quyết tâm thuyết phục ông đồng ý cho đăng bài về mình, nhưng ông dặn: Viết gì thì viết, nhớ lấy tập thể làm trung tâm đấy nhé! Và với câu chuyện được sắp xếp tuy không liền mạch, nhưng đó là những trải nghiệm hết sức thật của ông từ một nhân viên kỹ thuật đến khi trở thành người đứng đầu đơn vị.
 |
Đại tá Hoàng Quang Linh giao lưu với tuổi trẻ Trung tâm Kỹ thuật thông tin công nghệ cao, tháng 3-2015. Ảnh: Hà Thu. |
Năm 1973, sau khi tốt nghiệp Học viện Kỹ thuật quân sự, mặc dù lúc ấy cụ thân sinh của ông là Đại tá Hoàng Đình Phu đang là Viện trưởng Viện Kỹ thuật quân sự, cơ hội làm việc tại Thủ đô là rất lớn, nhưng ông tình nguyện vào miền Nam nhận nhiệm vụ là Trạm trưởng trạm VT25 (thuộc Trung đoàn 596, nay là Lữ đoàn 596-Binh chủng TTLL), đóng quân tại sân bay Tân Sơn Nhất. Sau 4 năm lăn lộn với công việc ở đây, tháng 3-1977 ông chuyển ra Hà Nội, về công tác tại Viện Kỹ thuật thông tin cho đến ngày nghỉ hưu.
Từ một đơn vị khai thác thông tin về công tác ở đơn vị bảo đảm kỹ thuật, nhiệm vụ rộng và mới hơn, ông đã gặp không ít khó khăn. Nhưng ở tuổi 26 tràn đầy nhiệt huyết, ông quyết tâm tự tìm tòi, học hỏi để bắt nhịp với công việc. “Hằng ngày với cặp lồng cơm trong ba lô, đạp xe gần chục cây số đến đơn vị đang đóng quân ở phố Láng Hạ, cùng với đồng đội mày mò trên từng mạch điện, thấy yêu công việc làm sao!”-Đại tá Hoàng Quang Linh tâm sự.
Nhớ lại nhiệm vụ đầu tiên ông được giao đảm nhận là nghiên cứu, thiết kế chế tạo máy mã thoại K06, ông kể: "Đây là nhiệm vụ hoàn toàn mới, chưa có tiền lệ. Cánh kỹ sư chúng tôi gồm 5 người phải tìm sách đọc, mày mò tìm hiểu nguyên lý, cấu trúc. Sau đó thống nhất phân công mỗi người triển khai một nhiệm vụ như xây dựng nguyên tắc mã, sơ đồ khối... Phải mất vài năm, sau rất nhiều lần thử nghiệm không thành công, thử đi thử lại, đến năm 1980 chúng tôi mới quyết định đưa đến Nhà máy M3 (nay thuộc Tập đoàn Viễn thông quân đội Viettel) sản xuất hàng loạt”. Máy mã thoại K06 chế tạo thành công là một trong những sản phẩm tiêu biểu đã đưa Viện Kỹ thuật thông tin đi vào lịch sử, khi sản phẩm này đáp ứng đúng thời điểm chiến trường K và biên giới phía Bắc đang rất cần. Điều này mãi về sau những kỹ sư như Hoàng Quang Linh mới biết.
Sau một thời gian phấn đấu, năm 1985, khi đang là Phó phòng Thiết bị sở chỉ huy, ông được cử đi Hung-ga-ri thực tập nghiên cứu sinh. Hai năm sau đó, ông về nước tiếp tục làm nhân viên kỹ thuật vì Phòng Thiết bị sở chỉ huy của ông đã giải thể. "Làm chỉ huy hay kỹ thuật viên bình thường mình vẫn vui và phấn khởi, chỉ cần đó là công việc mình yêu thích”-ông nói.
Chính trong khoảng thời gian này, ông có điều kiện tập trung cho những ý tưởng ấp ủ từ lâu. “Tôi đã trăn trở rất nhiều về việc phải tìm ra máy đo chủ động phát hiện lỗi nhanh, khắc phục những hạn chế hiện có trong mạng điện thoại hồi ấy. Bất ngờ, một hôm đồng chí viện phó Nguyễn Xuân Thiên gặp tôi cho biết, ở bưu điện Nghệ An có một cán bộ đã làm được điều này. Sau đó, cấp trên giao cho tôi cùng đồng chí Nguyễn Hữu Tuấn, Trợ lý nghiên cứu của viện trực tiếp vào tìm hiểu, nghiên cứu chế tạo đài đo nhanh đường dây cho tổng đài tự động XY3000 (Tổng đài tự động 3.000 số-có khả năng phát hiện lỗi nhanh). Lúc này toàn quân chỉ có một máy thu được của chính quyền Mỹ-ngụy sau giải phóng nên gặp rất nhiều hạn chế, nhất là khi có tình huống bất ngờ, cần sửa chữa gấp, tổ đường dây rất khó trong việc tìm kiếm, phát hiện vị trí hỏng hóc cũng như lỗi cụ thể”.
Vào đến Nghệ An, gặp ông Kiều Quán Bảo-người chế tạo thành công thiết bị đo nhanh-đã nhiệt tình giới thiệu sản phẩm của mình cho hai thiếu tá quân đội. Theo lời kể của Đại tá Hoàng Quang Linh, chiếc máy của ông Bảo to như một cái bàn, chạy thì kêu xèn xẹt nhưng đo phát hiện hỏng hóc rất nhanh. Tuy nhiên, dù nhiệt tình giới thiệu, nhưng khi được đề nghị cung cấp thông số kỹ thuật, nguyên lý làm việc thì họ nhất định không cho. Họ giới thiệu với mong muốn quân đội sẽ đặt hàng mua sản phẩm, trong khi thực tế, Quân đội ta lúc đó rất hạn chế kinh phí và cũng không có chủ trương mua mới. Tuy rất thất vọng, nhưng trước khi về Hà Nội, hai người vẫn đề nghị ông Bảo cho xem lại chiếc máy một lần nữa. "Lúc này, nhìn vào bộ nhảy số một lúc tôi reo lên: Tuấn ơi, tao biết làm như thế nào rồi, về làm thôi”-ông kể.
Trước sự ngỡ ngàng của ông Bảo, Hoàng Quang Linh kéo kỹ sư Tuấn trở lại đơn vị, trình bày nguyên lý và thuật toán mình phát hiện ra từ chiếc máy của ông Bảo. Vậy là từ bước đầu ấy, hai ông liên hệ nhờ các kỹ sư ở Viện Vũ khí dùng Z80 (Hệ điều hành 8 bite-NV) viết giúp phần mềm điều khiển cho tổng đài đo nhanh, trên cơ sở lưu đồ thuật toán và các phần cứng do các ông cung cấp. Đến khoảng cuối năm 1988, một sản phẩm với nhiều tính năng vượt trội hơn của Bưu điện Nghệ An đã được sản xuất thành công. Chỉ sau 2 giờ hoạt động đã đo được cả 3.000 đầu số phát hiện các lỗi, đồng thời có thể in ra biết được hỏng hóc ở vị trí nào để kịp thời xử lý...
Những năm sau đó, ông tiếp tục miệt mài với công việc của mình, được cấp trên tin tưởng giao nhiều trọng trách rồi trở thành Trung tâm trưởng (nay là giám đốc) Trung tâm KTTT CNC. “10 năm làm cấp trưởng ở một đơn vị có cơ cấu tổ chức mềm trong quân đội. Trong thời gian ấy, tôi đã kịp thời tư vấn cho binh chủng xây dựng đường hướng phát triển, cơ chế chức năng cũng như uy tín của trung tâm. Ngày nay, mỗi giai đoạn trung tâm có nhiệm vụ nổi lên, vì vậy đội ngũ cán bộ của chúng ta cần phải chủ động để khi cấp trên giao nhiệm vụ có thể tự tin nói: Chúng tôi có thể làm được. Tất nhiên, tôi tin trung tâm đã, đang và sẽ làm được điều đó”-ông nói.
SONG THANH