Tôi cùng Nguyễn Văn Cường (trinh sát viên) và Nguyễn Văn Khanh, thông tin viên 2W vốn là sinh viên Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội nhập ngũ một ngày, triển khai đài trên mỏm đất cao rìa sông làng Xuân An, đối diện chợ Sải. Làng Xuân An khi ấy cây cối còn xanh, cánh lính bộ binh và trinh sát pháo binh đào tới gần 2km hào quanh làng, nối 6 hầm bộ binh và đài quan sát của chúng tôi với mức sâu ngập đầu và rộng tới 60cm để phục vụ công việc chốt giữ.

Vào một chiều cuối tháng 10-1972, khi chúng tôi vừa ăn trưa xong, tôi lên hầm quan sát bờ nam thì nghe “ríu… ríu” rồi “ùng”, một trái pháo 155mm nổ ngay phía sau. Tôi ngoái đầu thì thấy quả đạn pháo chơm (loại đạn nổ trên không cách mặt đất từ 50 đến 70m) nổ giữa làng Xuân An, khói cuồn cuộn. Tôi hô: “Xuống hầm ngay! Nó bắn pháo chơm đấy!” rồi lập tức cùng Cường, Khanh rút xuống hầm trú ẩn sâu gần 4m và nóc hầm cũng dày tới 4m. Chỉ 30 giây sau, pháo 155mm của địch bắt đầu giã cấp tập vào làng và rõ ràng đài quan sát của chúng tôi là mục tiêu “ưu tiên” của trận pháo chơm kéo dài chừng 10 phút.

leftcenterrightdel
Tác giả (bên trái) tại trận địa Nhan Biều, Triệu Phong, Quảng Trị, năm 1972. Ảnh: VĂN VƯỢNG.

Chúng bắn loại pháo chơm nhằm gây sát thương cho quân ta nếu đang lộ thiên, kể cả đang di chuyển dưới giao thông hào. Vì thế, sau 10 phút pháo chơm, địch mới tập trung bắn pháo nổ để tàn phá khu vực phòng thủ của chúng tôi. Tôi nghe xen trong tiếng nổ của đạn 155mm còn có cả đạn 105mm, như vậy có nghĩa là chúng quyết tiêu diệt làng Xuân An của chúng tôi rồi! Tuy nhiên, đã quen với những trận pháo bầy, chúng tôi ban đầu còn cười nhạo: “Thách chúng mày làm gì được bọn ông đấy!”. Nhưng lần này bọn chúng bắn khá dai, gần nửa tiếng mà đạn pháo vẫn gầm thét, chúng tôi bắt đầu hoảng. Khanh mở máy thông tin báo cáo về sở chỉ huy: “Báo cáo tiểu đoàn trưởng, Xuân An bị pháo kích nửa tiếng liền rồi, xin chỉ thị của tiểu  đoàn!”. Lập tức chúng tôi nghe loa ngoài của máy, tiếng Tiểu đoàn trưởng Thuận: “Trú ẩn an toàn! Chờ lệnh! Khi ngớt pháo phải quan sát ngay đề phòng địch đổ bộ!”. “Rõ!”. Khanh đáp và nhìn tôi, lúc ấy là tổ trưởng đài. Tôi bảo: “Ta chấp hành thôi, nó nổ dữ quá, chưa lên quan sát được!”.

Tôi nói vừa dứt lời thì, “ríu... uỵch”, một quả nổ chậm có vẻ sát hầm chúng tôi khoan mạnh khiến hầm chao đảo. Tôi thét: “Pháo khoan rồi!” và ba anh em ngồi sát vào nhau, căng thẳng lắng nghe. “Ríu… uỵch” liên tiếp, hẳn là chúng muốn “xơi sạch” chúng tôi trong các hầm cố thủ đây bởi không còn nghe tiếng nổ nữa mà chỉ “ríu... uỵch, ríu... uỵch” liên hồi. Là lính pháo, chúng tôi biết uy lực khủng khiếp của các loại đạn khoan. Loại này nổ chậm, xuyên qua các nóc hầm, gặp khoảng không trong hầm mới nổ. Và vì vậy chúng tôi bắt đầu lo lắng! Cường gào giọng Nghệ An: “Bọn bay ơi, khéo đi cả chuyến ni!”. Tôi thét: “Không nghĩ bậy! Cò ỉa miệng chai, nóc hầm dày, trúng chưa chắc đã xuyên nổi!”. Nhưng Khanh “con” thì rên: “Mẹ nó, tao nghe tiếng rít khủng khiếp quá!”. Tôi động viên các bạn: “Từ đầu đến giờ đạn khoan nó đã trúng hầm quân ta bao giờ đâu! Kệ chúng nó!”. Miệng nói cứng nhưng trong lòng tôi cũng đã thấy chờn. Ba anh em tôi ban đầu ngồi sát nhau, được mươi phút thì ôm lấy nhau thì thầm: “Nếu trúng, ta cùng chia nhau!”. Và lúc ấy, do chịu đựng căng thẳng quá mức, quần áo chúng tôi cùng ướt đầm đìa vì mồ hôi...

Chừng nửa tiếng sau, tiếng rít thưa dần rồi im. Tai chúng tôi đều ù đi, chỉ lắng tiếng động và độ rung của hầm mà đoán địch đã ngừng bắn. Đợi tai bớt ù, tôi chậm rãi bò lên hầm đài quan sát thì cha mẹ ôi, ngoài hầm đài chúng tôi, toàn bộ làng Xuân An đã bị san phẳng, chỉ còn vài ba cây mít cổ thụ trụi lá và bị cưa cụt ngang thân! Mùi thuốc đạn tràn ngập không gian. Cùng lúc ấy, mấy chàng lính bộ binh Trung đoàn 95 cũng lóp ngóp bò lên. Thấy tôi, một cậu gào lên: “Sợ các bố trinh sát pháo quá! Các bố làm chúng tôi vạ lây đấy! Giờ đào lại giao thông hào thì ốm cả tháng rồi!”. Tôi cười mếu đáp: “Ông chửi bọn thủy quân lục chiến ấy. Lũ chúng nó đến là lắm đạn. Các bố mà nhiều đạn như chúng mày thì chúng mày chết với bố!”.

Cũng may, hôm ấy chúng chỉ bắn tàn sát và tiêu hao chứ không đổ bộ, vì sông đoạn này rộng hơn trăm mét, bơi xuồng sang hẳn chúng không dám...

Quảng Trị, nơi ấy chúng tôi đã chiến đấu nhiều trận không cân sức như vậy. Và may thay, cả ba chúng tôi đều còn sống trở về, còn tiếp tục chiến đấu nhiều chiến dịch cho đến ngày thắng lợi hoàn toàn.

PHÙNG HUY THỊNH