Qua mấy tháng chưa thấy hồi âm và câu chuyện trả lại nhật ký Nghiêm Sỹ Thao đang rơi vào quên lãng. Tình cờ một ngày đầu xuân mới, chúng tôi thấy một Facebooker có tên gần giống: Nghiêm Sỹ Thái. Hồi hộp đọc những nội dung được đăng tải gần đây, “cánh thám tử chúng tôi” đã hình dung ra cuộc chiến đấu gian nan, khốc liệt của nhà báo Nghiêm Sỹ Thái-chủ nhân trang Facebook nói trên từng trải qua. Anh sinh năm 1942 tại Hà Tĩnh, trong gia đình có truyền thống yêu nước. Cha anh luôn động viên các con trai đủ tuổi là nhập ngũ. Thế mới có chuyện cậu bé 9 tuổi Nghiêm Sỹ Thái đã phải làm “anh cả” trong nhà, vì 3 người anh đã nối nhau gác bút nghiên vào bộ đội.
Năm 1965, Nghiêm Sỹ Thái cùng 12 sinh viên năm thứ ba Khoa Văn, Trường Đại học Tổng hợp tình nguyện vào Nam. Họ được đặc cách tốt nghiệp, nhận bằng cử nhân văn chương, đi vào chiến trường với tư cách nhà báo Thông tấn xã Giải phóng. Trong buổi tiễn đưa họ, lớp trưởng bắt nhịp hát bài “Giải phóng miền Nam” để lấy khí thế. Nhưng bài hát chỉ hùng tráng giữa chừng thì yếu dần rồi bật lên thành tiếng khóc. Qua tiếng khóc, cả lớp nhanh chóng điều tra ra 3 cặp đôi yêu nhau. Cuộc tiễn đưa các nhà báo trẻ đã làm lộ 3 mối tình vụng trộm lâu nay. Trong khi ấy, tân phóng viên Nghiêm Sỹ Thái không khóc vì chưa kịp thầm yêu trộm nhớ một ai. Ra đi nhẹ gánh, không có “mối tình vắt vai” nhưng vai anh vẫn trĩu nặng vì trót mang trong ba lô quá nhiều sách và bộ đồ làm ảnh. Vượt Trường Sơn, dọc đường anh phải “thanh lý” dần những bộ tiểu thuyết cùng các tập thơ. Còn chiếc máy ảnh và bộ dụng cụ in tráng phim, các tập giấy ảnh, phim cuộn là anh nâng niu như một thứ vũ khí bất ly thân.
    |
 |
Nhà báo Nghiêm Sỹ Thái chia sẻ cảm xúc khi nhận lại cuốn nhật ký bị thất lạc. Ảnh: MẠC YÊN |
Đến ngày hành quân thứ 7, đoàn được phân đi các mặt trận khác nhau. Đoàn của Nghiêm Sỹ Thái có 20 người, được chia về mặt trận Thừa Thiên Huế. Kết thúc chặng đường hành quân ban ngày, đoàn bước vào chặng đường bí mật, phải hành quân đêm. Đeo ba lô đi được vài phút, anh đã bị lạc đội hình. Chiến sĩ giao liên và trưởng đoàn hành quân quay lại tìm, anh mới thú thật mình bị bệnh quáng gà từ bé. Trong cơn mệt mỏi và giận dữ, vị chỉ huy lên tiếng quát: Một sự giả dối tổ chức? Khi khám sức khỏe tại sao không thú thật bệnh tật để làm báo ở nhà, ra chiến trường làm gì, làm khổ người khác?
Nghe quát mắng, anh tự ái nhưng vẫn phải nén chịu, ngoan ngoãn cầm lấy sợi dây rừng và mẩu lân tinh buộc sau ba lô người chỉ huy. Bước thấp bước cao, anh cầm đầu dây bước đi như một người mù. Có thể coi đêm hành quân đó là đêm anh bị vết thương đầu tiên trong chiến tranh. Một vết thương lòng đau đớn hơn bởi đó là tiếng mắng của chính “quân mình”. Nhưng nỗi tự ái lại như tăng động lực cho anh thêm ý chí rèn luyện và chiến thắng chính bản thân mình. Ý chí quyết thắng đó còn gắn liền với một hy vọng tuy mơ hồ nhưng vẫn có khả năng trở thành hiện thực. Đó là hy vọng gặp gỡ 3 người anh đang cùng chiến đấu trên chiến trường. Một trong số đó là anh trai cả, chính là Chính ủy Nghiêm Kình mà sau đã trở thành nguyên mẫu của nhân vật Chính ủy Kinh trong tiểu thuyết “Dấu chân người lính” của nhà văn Nguyễn Minh Châu.
Câu chuyện bệnh quáng gà còn tạo một bước chuyển quyết định trong tư duy nghề nghiệp của anh, xuất phát từ lần “chạy khơi” của tòa soạn Báo Quân giải phóng Trị Thiên. Theo hướng dẫn, khi nhận được tin báo về các trận càn của Mỹ vào các căn cứ, cán bộ ta phải nhanh chóng tìm hầm bí mật chui xuống ẩn náu. Một lần nọ, Mỹ bất ngờ đổ quân bao vây. Tìm đến các hầm bí mật, các nhà báo phát hiện ra dấu hiệu báo “đã hết chỗ”. Nhiều miệng hầm còn có dấu vết khác lạ, chứng tỏ đã bị lộ. Chắc chắn có chỉ điểm hoặc một tên chiêu hồi nào đó đã khai báo sơ đồ hầm bí mật của ta. Chỉ còn một phương án thứ hai là “chạy khơi”-tức là chạy ra khỏi tọa độ bị càn càng xa càng tốt. Nhà báo trẻ Nghiêm Sỹ Thái chạy theo hướng có ánh trăng cho dễ nhìn đường đi. Anh ôm máy ảnh, đeo ba lô chạy về phía bãi cát đang rời rợi ánh trăng vàng. Nhưng chạy được gần 100m, anh đã nghe có tiếng quát “đứng lại”. Không phải tiếng địch mà là giọng Bắc, của người cùng cơ quan. Tiếng người rít lên, gằn giọng, đủ để cho anh hiểu: Phải quay ngược trở lại vị trí xuất phát, nhưng phải đặt đúng dấu bàn chân mình vừa chạy qua.
Hóa ra anh đi lạc vào bãi mìn du kích ta gài. Người gài mìn đã hy sinh, không kịp bàn giao lại sơ đồ lỗ mìn. Trong khi quân địch đã áp sau lưng, đôi mắt quáng gà của anh lúc đó phải căng ra, làm việc hết công suất mới thấy vết chân cũ của mình đang bị gió thổi cát xóa mờ. Mồ hôi anh vã ra ướt đầm lưng áo. Anh đi ngược về phía có địch, ngực tức lên vì rón rén, nín thở và không biết sau mỗi bước chân mìn nổ lúc nào. Như có quý nhân phù trợ hay một phép màu nào đó đã diễn ra, anh đã thoát chết ngay giữa vòng vây của bãi mìn quân ta và những làn đạn của địch. Cũng sau lần chết hụt đó, chàng cử nhân văn chương quyết định tạm biệt với cảm hứng thi ca, không làm thơ nữa. Cuộc chiến đấu gian nan, khốc liệt trước mắt không cho phép phóng viên Nghiêm Sỹ Thái phiêu diêu, mơ mộng. Người làm báo chiến trường phải sống với tinh thần cảnh giác thường trực và lý trí tỉnh táo để tác nghiệp bằng các thể loại báo chí và ống kính thời sự.
Tờ báo của anh có 3 người. Anh và Tô Nhuận Vỹ làm phóng viên, mỗi người phụ trách lấy tin viết bài nửa tỉnh. Tổng biên tập Nghiêm Nhơn kiêm luôn thư ký tòa soạn, chép tin đọc chậm, biên tập, chạy in và đảm nhiệm công việc phát hành. Báo phát hành qua đường giao liên, xuống các đơn vị và thôn xóm đồng bào vùng sâu, vùng xa. Các chiến sĩ giao liên dẫn đường thích hành trang gọn nhẹ, thường chỉ để công văn, giấy tờ cần chuyển cùng khẩu AK báng gấp. Họ rất ngại đeo thêm bọc báo nặng. Nhiều giao liên đã hy sinh vì những bọc báo gửi phát hành.
Các tờ báo chiến trường Trị Thiên Huế thường chỉ in 200 số, vì không có nguồn giấy ổn định. Trong số các mặt hàng tiếp tế từ Bắc vào Nam, giấy in báo được xếp hàng ưu tiên thứ bảy. Để tận dụng hiệu quả thông tin báo chí, Nghiêm Sỹ Thao và các đồng nghiệp của ông, như Trần Mai Hạnh (tác giả các cuốn sách “Biên bản chiến tranh”, “Ngày tận thế”), Đặng Đình Loan (tác giả bộ tiểu thuyết “Đường thời đại”), Trần Hoàn (nhạc sĩ), thường gửi bài viết của mình ra Bắc, cho các tờ Quân đội nhân dân, Nhân Dân, Cứu quốc và Đài Tiếng nói Việt Nam... Nhiều bài báo của Nghiêm Sỹ Thái về các gương anh hùng, dũng sĩ được đọc nhiều lần trên đài, đã đến tai nhân vật và các đơn vị vùng giải phóng, làm nức lòng những người cầm súng. Và ngược lại, nhiều bạn bè, đồng nghiệp, người thân ở miền Bắc nghe đài, đọc báo thấy tên anh, biết anh còn sống đã gửi thư thăm hỏi, chúc mừng. Mỗi lá thư miền Bắc anh nhận được như nhận một món quà hậu phương vô giá.
    |
 |
Nghiêm Sỹ Thái (đứng trước) cùng các đồng nghiệp Báo Thừa Thiên-Huế, năm 1968. Ảnh do nhân vật cung cấp |
Cuối năm 1968, tờ báo của anh sáp nhập với tờ Quảng Trị-Thừa Thiên, thành tờ Thống nhất. Nhà in Báo Thống nhất có 10 công nhân, kỹ thuật viên, sau một trận B-52 đã hy sinh mất 8. Không còn nhà in, Báo Thống nhất phải đình bản, Nghiêm Sỹ Thái phải chuyển biên chế sang Ban Tuyên huấn của mặt trận. Anh làm tuyên huấn với tư cách nhà báo. Một nhà báo bám các đơn vị chiến đấu mà viết, hoặc phải bí mật nằm vùng trong lòng dân. Trong một lần chạy càn, chiếc máy ảnh Pentax đang hành nghề rất tốt của anh bị địch tìm ra, lấy mất. Dùng tạm chiếc máy ảnh Kiev của Liên Xô cũ kỹ suốt 5 năm liền, Nghiêm Sỹ Thái vẫn nổi tiếng vì hàng trăm bức ảnh thời sự kèm hàng trăm bài viết cho Đài Tiếng nói Việt Nam, các tờ báo ở Thủ đô Hà Nội và các vùng giải phóng phía trong. Bút danh Nghiêm Sỹ Thái còn nổi tiếng hơn cái chức vụ Trưởng ban phân xã Thông tấn xã Giải phóng Thừa Thiên Huế mà anh đảm nhận...
Qua những điều ông chia sẻ trên Facebook, chúng tôi-những cựu chiến binh đồng môn-nhận ra một gương mặt thân quen và vô cùng sống động về một nhà báo trưởng thành qua chiến tranh. Chỉ tiếc đó không phải là người có cuốn nhật ký có tên Nghiêm Sỹ Thao. Một ý nghĩ lóe sáng, chúng tôi quyết định liên lạc với ông qua Messenger. Chúng tôi hỏi ông có biết một người họ hàng nào trong dòng tộc Nghiêm Sỹ tên là Thao không. Sau nhiều lần nhắn tin và gửi ảnh không thấy hồi âm, một đêm về sáng, chúng tôi thấy ông hồi âm. Ông xin lỗi vì phúc đáp hơi muộn do đang ở Canada trông cháu. Ông nói rằng chẳng có Sỹ Thao nào cả. Ông đã nhận ra ảnh mình và nét chữ của mình hơn 50 năm trước. Do bìa sách nhàu nát, dòng chữ viết tay phai mực, người ta đã đọc nhầm chữ Thái thành Thao. Đó là cuốn nhật ký của chính ông, viết từ thời sinh viên cho đến năm 1968. Sau trận càn, bom pháo Mỹ đánh tung hầm cất giấu tài liệu. Mấy chục năm qua, ông đã hoàn toàn quên cuốn sổ nhật ký đó vì nghĩ rằng bom đã đánh cháy hoặc mục nát trong lòng đất.
Khi chúng tôi viết những dòng cuối của bài báo này, cuốn nhật ký tha phương từ đất Mỹ đã thực sự trở về với chủ nhân. Nó đã đến tay ông một cách trang trọng vào ngày 17-4-2025, trong buổi lễ bàn giao do Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam và Đại sứ quán Hoa Kỳ phối hợp tổ chức. Nhìn những dòng chữ nét tỏ nét mờ, không thể đọc trọn vẹn cả câu, đôi mắt nhà báo già rớm lệ. Những tên đất, tên người, những ngày, giờ ông ghi trong nhật ký bỗng chốc xôn xao, như đang làm sống dậy một thời hoa lửa chiến tranh. Nhà báo Nghiêm Sỹ Thái không thể không nghĩ đến một cuốn hồi ký dày dặn hoặc một cuốn tiểu thuyết tự thuật khởi thảo rồi xuất bản sớm trong tương lai...
PGS, TS PHẠM THÀNH HƯNG