SỰ CHỦ ĐỘNG CẢ TRONG CHIẾN LƯỢC VÀ CHIẾN THUẬT

Phóng viên (PV): Như chúng ta đã biết, từ ngày 18 đến 30-12-1972, Mỹ mở cuộc tập kích chiến lược bằng không quân với quy mô lớn chưa từng có trong cuộc chiến tại Việt Nam vào Hà Nội, Hải Phòng và một số mục tiêu trên miền Bắc, với mật danh “Linebacker II”. Đâu là âm mưu thật sự của Mỹ trong cuộc tập kích đường không chiến lược này, thưa đồng chí?

Thiếu tướng Lâm Quang Đại: Cuộc tập kích này, Mỹ có dã tâm và mưu đồ đen tối. Trước hết, chính quyền Nixon muốn gây sức ép buộc ta phải khuất phục và chấp nhận những điều kiện mà chúng đưa ra ở Hội nghị Paris. Thứ hai, đánh phá hủy diệt tiềm lực kinh tế, quốc phòng của miền Bắc, hạn chế sự chi viện cho cách mạng miền Nam, làm giảm thế và lực của ta so với ngụy quân, ngụy quyền Sài Gòn. Thứ ba, đe dọa phong trào đấu tranh của nhân dân thế giới và trấn an tạo thế cho quân ngụy Sài Gòn tiếp tục thực hiện âm mưu lấn chiếm...   

leftcenterrightdel
Thiếu tướng Lâm Quang Đại, Chính ủy Quân chủng Phòng không- Không quân. Ảnh: Song Thanh 

PV: Trong cuộc tập kích đường không chiến lược quy mô lớn này, Mỹ đã huy động 193 máy bay chiến lược B-52 (chiếm gần 50% tổng số máy bay chiến lược B-52 của toàn nước Mỹ) và các loại máy bay chiến thuật ở khu vực Đông Nam Á, Mỹ hy vọng chỉ sau vài ngày hủy diệt Hà Nội, sẽ buộc ta phải chấp nhận theo điều kiện của Mỹ. Chúng ta có bị bất ngờ trước âm mưu và mức độ huy động tổng lực phương tiện như thế của đối phương hay không?

Thiếu tướng Lâm Quang Đại: Ngay từ năm 1962, Bác Hồ đã gặp đồng chí Phùng Thế Tài và hỏi: “Bây giờ chú là Tư lệnh Phòng không, vậy chú đã biết gì về B-52 chưa?” và Bác nói tiếp: “Nói thế thôi, chú có biết lúc này cũng chưa làm gì được nó. Nó bay cao trên mười cây số mà trong tay chú hiện nay chỉ mới có cao xạ thôi. Nhưng ngay từ nay, là Tư lệnh Phòng không, chú phải theo dõi chặt chẽ và thường xuyên quan tâm đến thằng B-52 này”. Năm 1966, B-52 lần đầu tiên ném bom khu vực đèo Mụ Giạ, Quảng Bình, rồi đến Vĩnh Linh, phía bắc Vĩ tuyến 17 với mức độ ngày càng ác liệt. Bác Hồ đã chỉ thị cho đồng chí Đặng Tính, Chính ủy Quân chủng PK-KQ: “B-52 đã ném bom miền Bắc, phải tìm cách đánh cho được B-52. Trách nhiệm này Bác giao cho các chú PK-KQ”. Đến đầu năm 1968, Bác gọi đồng chí Phùng Thế Tài-Phó tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam và đồng chí Đặng Tính-Chính ủy kiêm Tư lệnh Quân chủng PK-KQ đến báo cáo tình hình và Bác đã nhận định: “Sớm muộn rồi đế quốc Mỹ cũng sẽ đưa B-52 ra đánh Hà Nội, rồi có thua nó mới chịu thua. Phải dự kiến trước tình huống, càng sớm càng tốt, để có thời gian suy nghĩ chuẩn bị. Nhớ là trước khi thua ở Triều Tiên, đế quốc Mỹ đã hủy diệt Bình Nhưỡng. Ở Việt Nam, Mỹ nhất định thua, nhưng nó chỉ thua sau khi thua trên bầu trời Hà Nội”. Từ dự báo chiến lược đó, ngày 5-4-1972, Quân ủy Trung ương chỉ thị cho Quân chủng PK-KQ và các quân khu: “Phải sẵn sàng đối phó với khả năng Mỹ cho không quân, kể cả không quân chiến lược đánh phá trở lại miền Bắc”. Ngày 24-11-1972, Tổng Tham mưu trưởng đã phê chuẩn Kế hoạch tác chiến đánh trả cuộc tập kích chiến lược đường không bằng máy bay B-52 của Mỹ vào Hà Nội, Hải Phòng và chỉ thị: “Quân chủng PK-KQ phải hoàn thành mọi công tác chuẩn bị trước ngày 3-12-1972... Trước ngày Nixon nhậm chức, Mỹ có thể mở đợt tập kích bằng không quân chiến lược ra Hà Nội, Hải Phòng, phải nắm chắc địch, tuyệt đối không để bị bất ngờ, tập trung mọi khả năng để tiêu diệt B-52”.

Như vậy có thể nói về mặt chiến lược, chúng ta không hề bị bất ngờ trước mưu thâm kế độc của Mỹ.

PV: Đó là sự chuẩn bị về chiến lược, còn về mặt chiến dịch, chiến thuật ta có bị động không, thưa đồng chí?

Thiếu tướng Lâm Quang Đại: Về phía Quân chủng PK-KQ thì đã sớm có “Kế hoạch tác chiến đánh trả cuộc tập kích bằng B-52 của Mỹ vào Hà Nội, Hải Phòng” và các tài liệu hướng dẫn về cách đánh B-52. Tiêu biểu là cuốn “Cẩm nang bìa đỏ”, in rô-nê-ô, chỉ dày 30 trang nhưng là kết quả của cả quá trình xây dựng hết sức công phu, gian khổ của một lực lượng PK-KQ từ trong chiến trường Khu 4. Trước đó, từ tháng 5-1966, Quân chủng PK-KQ đã tổ chức cho Trung đoàn Tên lửa Hạ Long cơ động chiến đấu trực tiếp nghiên cứu cách đánh B-52 tại chiến trường Vĩnh Linh. Đây là một quyết tâm rất cao thể hiện tư tưởng chủ động tiến công. Đến tháng 1-1972, Quân chủng PK-KQ tiếp tục đưa thêm 4 trung đoàn tên lửa vào Khu 4 cùng một số máy bay MiG-21 để chi viện cho Chiến dịch Trị Thiên. Như vậy, Quân chủng PK-KQ đã đưa 4 đợt tên lửa, ra-đa và nhiều chiếc máy bay MiG-21 vào chiến trường trực tiếp nghiên cứu cách đánh B-52. Trên cơ sở này, ngày 31-10-1972, quân chủng tổ chức Hội nghị cán bộ tập trung bàn về cách đánh B-52. Tập trung vào việc điều chỉnh lực lượng, đội hình chiến đấu, triển khai sở chỉ huy dự bị các cấp, huấn luyện các kíp chiến đấu, công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, xây dựng ý chí quyết tâm chiến đấu cho cán bộ, chiến sĩ. Bên cạnh đó, có một nội dung hết sức quan trọng trong thời điểm này là việc chống “ảo tưởng hòa bình”. Đảng ủy - Bộ tư lệnh Quân chủng PK-KQ đã tiến hành một đợt sinh hoạt chính trị rộng rãi trong toàn lực lượng làm cán bộ, chiến sĩ thấu triệt và có nhận thức sâu sắc về âm mưu của kẻ thù, động viên tinh thần tích cực, chủ động của các đơn vị trong quân chủng nâng cao ý chí quyết tâm, xây dựng kế hoạch đánh B-52. Tuy đã bắn rơi được B-52 nhưng chưa lần nào B-52 rơi tại chỗ và bắt sống giặc lái. Nhưng từ những nghiên cứu thực tế thu được đã có cơ sở để tháng 9-1972, Quân chủng PK-KQ xây dựng được “Phương án đánh máy bay B-52”.

Như vậy về mặt chiến dịch đã được chuẩn bị chu đáo. Và thực tế là đêm 18-12-1972, khi chiến dịch tập kích đường không của Mỹ vào Hà Nội bắt đầu, chúng ta đã hoàn toàn chủ động đối phó, không bị bất ngờ: Bộ đội Ra-đa - lúc 19 giờ 15 phút chính thức báo cáo B-52 đang vào Hà Nội; đến 19 giờ 44 phút, quả đạn tên lửa đầu tiên được Tiểu đoàn 78, Trung đoàn 257 phóng lên đã mở màn cho chiến dịch lịch sử tháng 12-1972. 

leftcenterrightdel
Đại tướng Võ Nguyên Giáp cùng lãnh đạo Quân chủng Phòng không -Không quân chuẩn bị phương án đánh B-52 năm 1972. Ảnh tư liệu 

HỆ THỐNG “HIỆU LỰC NHẤT” VÀ BÀI HỌC QUYẾT ĐỊNH NHẤT

PV: Đồng chí cho biết những con số minh chứng chiến công oanh liệt của quân và dân ta trong 12 ngày đêm đối phó với cuộc tập kích đường không của Mỹ tại Thủ đô Hà Nội?

Thiếu tướng Lâm Quang Đại: Sau 12 ngày đêm, quân và dân ta, nòng cốt là Bộ đội PK-KQ đã bắn rơi 81 máy bay các loại; trong đó có 34 máy bay B-52, 5 máy bay F-111 và 42 máy bay chiến thuật khác. Đi đôi với tổn thất về máy bay, phía Mỹ còn phải chịu thêm tổn thất về người lái. Trong quân đội, người lái máy bay được coi là nguồn nhân lực quý. Để đào tạo được một phi công, đặc biệt là phi công chiến lược B-52, phi công F-111... phải tốn khá nhiều tiền bạc và thời gian. Chỉ hơn 10 ngày, Không quân Hoa Kỳ đã mất gần 100 phi công. Phần lớn số phi công bị chết và bị bắt đều là những phi công thuộc loại kỳ cựu, có giờ bay rất cao, có tên hơn 6.000 giờ bay. Khiếp đảm về tỷ lệ B-52 bị tiêu diệt, Tổng thống Mỹ đã phải ra lệnh chấm dứt không điều kiện cuộc tập kích. Sau này trong hồi ký của mình, Nixon đã viết: “Mối lo âu của tôi trong những ngày này không phải là về những làn sóng phản đối và phê phán nghiêm khắc ở trong nước và trên thế giới. Nỗi lo sợ chính của tôi là mức độ tổn thất máy bay B-52 là quá nặng nề”. Kissinger-cố vấn số 1 của Nhà Trắng cũng viết trong hồi ký: “Không lực Hoa Kỳ đã vấp phải một hệ thống phòng không có hiệu lực nhất trong lịch sử chiến tranh thế giới”...

PV: Trong các bài học kinh nghiệm được rút ra từ Chiến thắng “Hà Nội-Điện Biên Phủ trên không” 45 năm trước, liên hệ với thực tiễn huấn luyện, SSCĐ của Quân chủng PK-KQ hiện nay, đồng chí tâm đắc với bài học nào nhất?

Thiếu tướng Lâm Quang Đại: Chiến thắng lịch sử “Hà Nội-Điện Biên Phủ trên không” là niềm tự hào của cả dân tộc Việt Nam, để lại nhiều bài học vô cùng quý giá; trong đó, sức mạnh chính trị, tinh thần là bài học thành công nhất, quyết định nhất đến thắng lợi của chiến dịch. Quyết tâm “Dám đánh, biết đánh và quyết đánh thắng giặc Mỹ xâm lược” của quân và dân ta, nòng cốt là Bộ đội PK-KQ, là nhân tố cơ bản quyết định làm nên Chiến thắng “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không” tháng 12-1972.

Hiện nay, nếu chiến tranh xảy ra thì tất yếu là cuộc chiến tranh tổng lực sức mạnh kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao, văn hóa tư tưởng, tâm lý bằng vũ khí công nghệ cao. Trong bối cảnh đó, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN của quân và dân ta nói chung, Quân chủng PK-KQ nói riêng đứng trước cả những thuận lợi và thách thức đan xen. Để bảo vệ vững chắc vùng trời, biển, đảo của Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay, chúng ta phải phát huy sức mạnh tổng hợp của cả nước, đồng thời tranh thủ sự ủng hộ của các nước tiến bộ trên thế giới; trong đó, việc xây dựng nhân tố con người, nhất là xây dựng sức mạnh chính trị, tinh thần cho cán bộ, chiến sĩ giữ vai trò đặc biệt quan trọng, đòi hỏi chúng ta phải tích cực đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động CTĐ, CTCT trong toàn quân chủng...

PV: Trân trọng cảm ơn đồng chí!

HOÀNG TIẾN - BÍCH TRANG (thực hiện)