QĐND:

Hoan hô chiến sĩ Điện Biên

Tin về nửa đêm

Hỏa tốc hỏa tốc

Ngựa bay lên dốc

Đuốc cháy sáng rừng

Chuông reo tin mừng

Loa kêu từng cửa

Làng bản đỏ đèn, đỏ lửa…

Hoan hô chiến sĩ Điện Biên

Hoan hô đồng chí Võ Nguyên Giáp

Sét đánh ngày đêm xuống đầu giặc Pháp!

Vinh quang Tổ quốc chúng ta

Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa!

Vinh quang Hồ Chí Minh, cha của chúng ta ngàn năm sống mãi

Quyết chiến quyết thắng, cờ đỏ sao vàng vĩ đại!

Kháng chiến ba ngàn ngày

Không đêm nào vui bằng đêm nay

Đêm lịch sử, Điện Biên sáng rực

Trên đất nước, như huân chương trên ngực

Dân tộc ta, dân tộc anh hùng!

Điện Biên vời vợi nghìn trùng

Mà lòng bốn biển nhịp cùng lòng ta

Đêm nay bè bạn gần xa

Tin về chắc cũng chan hòa vui chung.

Hoan hô chiến sĩ Điện Biên

Chiến sĩ anh hùng

Đầu nung lửa sắt

Năm mươi sáu ngày đêm, khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt

Máu trộn bùn non

Gan không núng, chí không mòn!

Những đồng chí, thân chôn làm giá súng

Đầu bịt lỗ châu mai

Băng mình qua lưới thép gai

Ào ào vũ bão

Những đồng chí chèn lưng cứu pháo

Nát thân, nhắm mắt, còn ôm

Những bàn tay xẻ núi, lăn bom

Nhất định mở đường cho xe ta lên chiến trường tiếp viện

Và những chị, những anh ngày đêm ra tiền tuyến

Mấy tầng mây, gió lớn, mưa to

Dốc Pha Đin, chị gánh, anh thồ

Đèo Lũng Lô, anh hò chị hát

Dù bom đạn, xương tan thịt nát

Không sờn lòng, không tiếc tuổi xanh

Hỡi các chị, các anh

Trên chiến trường ngã xuống!

Máu của anh chị, của chúng ta, không uổng:

Sẽ xanh tươi đồng ruộng Việt Nam

Mường Thanh, Hồng Cúm, Him Lam

Hoa mơ lại trắng, vườn cam lại vàng.

Lũ chúng nó phải hàng, phải chết

Quyết trận này quét sạch Điện Biên!

Quân giặc điên

Chúng bay chui xuống đất

Chúng bay chạy đằng trời?

Trời không của chúng bay

Đạn ta rào lưới sắt!

Đất không của chúng bay

Đai thép gai thắt chặt!

Của ta, trời đất, đêm ngày

Núi kia, đồi nọ, sông này của ta!

Chúng bay chỉ một đường ra:

Một là tử địa, hai là tù binh

Hạ súng xuống, rùng mình run rẩy

Nghe pháo ta lừng lẫy thét gầm!

Nghe trưa nay, tháng năm mồng bảy

Trên đầu bay, thác lửa hờn căm!

Trông: Bốn mặt, lũy hầm sụp đổ

Tướng quân bay lố nhố cờ hàng

Trông: Chúng ta cờ đỏ sao vàng

Rực trời đất Điện Biên toàn thắng!

Hoan hô chiến sĩ Điện Biên!

Tiếng reo núi vọng sông rền

Đêm nay chắc cũng về bên Bác Hồ

Bác đang cúi xuống bản đồ

Chắc là nghe tiếng quân hò, quân reo

Từ khi vượt núi, qua đèo

Ta đi, Bác vẫn nhìn theo từng ngày

Tin về mừng thọ đêm nay

Chắc vui lòng Bác giờ này đợi trông.

Đồng chí Phạm Văn Đồng

Ở bên đó, chắc đêm nay không ngủ

Tin đây Anh, Điện Biên Phủ hoàn thành

Ngày mai, vào cuộc đấu tranh

Nhìn xuống mặt bọn Bi-đôn, Smít

Anh sẽ nói: “Thực dân, phát xít

Đã tàn rồi!

Tổ quốc chúng tôi

Muốn độc lập, hòa bình trở lại

Không muốn lửa bom đổ xuống đầu con cái

Nước chúng tôi và nước các anh

Nếu còn say máu chiến tranh

Ở Việt Nam, các anh nên nhớ

Tre đã thành chông, sông là sông lửa

Và trận thắng Điện Biên

Cũng mới là bài học đầu tiên”!

5-1954     

TỐ HỮU

(Rút từ “ Tuyển tập thơ văn Điện Biên Phủ, NXB Văn học, năm 2004)

Đại tướng Võ Nguyên Giáp và nhà thơ Tố Hữu (ngoài cùng, bên phải) trong một phiên họp Quốc hội. Ảnh: Xuân Ba

Không tính thể loại trường ca, trong tất cả các bài thơ viết về Điện Biên, “Hoan hô chiến sĩ Điện Biên” có dung lượng lớn nhất. Dung lượng ở đây là nói tới nội dung mà bài thơ đề cập đến, cũng là “lượng thông tin”, qua bài thơ, tác giả đã chuyển tới bạn đọc. Đó là niềm vui của mọi người khi nghe tin Điện Biên giải phóng thông qua các hình thức truyền tin trong đêm; đó là ghi công những người làm nên chiến công vĩ đại này, từ Đại tướng Võ Nguyên Giáp đến các anh hùng liệt sĩ, các đoàn dân công phục vụ chiến dịch…; đó là ý nghĩa của chiến thắng lịch sử, và cuối cùng là tuyên ngôn của người chiến thắng! Phóng viên Tạp chí Văn nghệ Quân đội đã có dịp hỏi chuyện tác giả bài thơ này. Nhà thơ Tố Hữu cho biết, ông không tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, trong suốt thời gian chiến dịch xảy ra cũng như ngày chiến thắng hoàn toàn, ông ở vùng ATK Định Hóa, Thái Nguyên. Cái cảnh báo tin chiến thắng “ngựa bay lên dốc/ Đuốc cháy sáng rừng…” là do ông tưởng tượng ra để nói niềm vui của mọi người trước tin vui quá lớn. Dù không tham gia chiến dịch, nhưng khi viết bài thơ này, tác giả coi mình nhập vào đoàn quân làm nên chiến thắng mà cảm xúc:

Từ khi vượt núi, qua đèo

Ta đi, Bác vẫn nhìn theo từng ngày…

Nhà thơ thật công bằng khi mở đầu bài thơ là ca ngợi công lao của Đại tướng:

Hoan hô chiến sĩ Điện Biên

Hoan hô đồng chí Võ Nguyên Giáp

Sét đánh ngày đêm xuống đầu giặc Pháp!

Đại tướng Võ Nguyên Giáp không chỉ là người có công số một trong chiến dịch này, mà nhiều nhà quân sự đã phân tích, nếu không có quyết định chuyển từ "đánh nhanh, thắng nhanh" trong hai ngày ba đêm sang đánh lấn, đánh lâu dài, chắc thắng của Đại tướng thì chúng ta không những thất bại mà tiêu vong rất lớn lực lượng của quân đội. Mới biết, trong chiến trận, sự sáng suốt của người cầm quân quan trọng như thế nào!

Kháng chiến ba ngàn ngày

Không đêm nào vui bằng đêm nay

Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bắt đầu từ ngày 19-12-1946 và kết thúc 7-5-1954, làm tròn con số là ba ngàn ngày. Và “đêm nay”, đêm 7-5-1954 là đêm vui nhất, vì ta toàn thắng Điện Biên, bắt sống tướng Đờ Cát vào cuối chiều. Niềm vui đêm 7-5-1954 cũng giống như niềm vui trưa 30-4-1975, kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Khi ca ngợi các chiến sĩ Điện Biên, nhà thơ viết:

“Năm mươi sáu ngày đêm, khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt”

Về góc độ số liệu, tôi thấy chưa thật chính xác. Ta thường nói chiến dịch này kéo dài 56 ngày đêm là kể từ khi đánh trận Him Lam vào 13-3-1954 cho đến ngày toàn thắng 7-5-1954, nhưng chúng ta đã chuẩn bị và đi vào chiến dịch này từ trước khá lâu. Đêm 25-1-1954, Đại tướng quyết định chuyển phương án tác chiến từ đánh nhanh, sang đánh chắc, thì khi đó pháo chúng ta đã vào trận địa rồi. Như vậy, lính ta đã “khoét núi, ngủ hầm…” không chỉ 56 ngày đêm, mà ít ra, thời gian còn gấp đôi thế!

Những đồng chí, thân chôn làm giá súng

Đầu bịt lỗ châu mai…

Những đồng chí chèn lưng cứu pháo…

là tác giả muốn nhắc đến các liệt sĩ Bế Văn Đàn, Phan Đình Giót, Tô Vĩnh Diện. Nhưng tác giả không điểm tên từng người, mà chỉ nhắc đến chiến công, ý muốn nói những tấm gương hy sinh quả cảm như vậy không phải là cá biệt.

Ghi công các đoàn dân công phục vụ chiến dịch:

Dốc Pha Đin, chị gánh, anh thồ

Đèo Lũng Lô, anh hò chị hát

Dù bom đạn xương tan thịt nát

Không sờn lòng, không tiếc tuổi xanh

Hàng vạn dân công phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ đi bằng hai con đường chính: Đường từ Sơn La lên, qua đèo Pha Đin, còn đường từ Yên Bái, Nghĩa Lộ sang thì qua đèo Lũng Lô. Tác giả khéo sử dụng hai địa danh, là trở ngại tự nhiên lớn nhất mà các đoàn dân công phải vượt, để ghi công sự đóng góp của dân công, làm nên chiến thắng.

Khi đọc hai câu thơ:

Mường Thanh, Hồng Cúm, Him Lam

Hoa mơ lại trắng, vườn cam lại vàng

chúng ta không chỉ biết ý tác giả muốn nói sự hồi sinh của Điện Biên sau khi chiến trận kết thúc, mà còn thấy tác giả “chơi màu sắc” trong cặp lục bát này. Với ba địa danh quen thuộc Mường Thanh, Hồng Cúm, Him Lam, nhà thơ Tố Hữu đã phát hiện ra chúng chứa ba màu: xanh (thanh), đỏ (hồng), xanh (lam). Ba màu đó nằm trọn vẹn trong câu lục, thì câu bát, cũng cần có màu sắc, và chắc tác giả thật thích thú khi viết được: “Hoa mơ lại trắng, vườn cam lại vàng” chứa được đến bốn màu: Mơ, trắng, cam, vàng! Người làm thơ thường thế, ngoài nhiệm vụ chính là chuyển tải nội dung, không bỏ qua dịp thưởng thức ngôn ngữ!

Còn cặp lục bát:

Chúng bay chỉ một đường ra:

Một là tử địa, hai là tù binh

cũng được nhiều người nhắc tới, nhưng không phải để khen. Câu bát có bản in: “Một là tiêu diệt…”. Ở đây cần lưu ý với bạn đọc rằng, Tố Hữu là nhà thơ thường sửa lại thơ mình, thậm chí còn sửa nhiều lần, sau khi đã in báo hoặc xuất bản thành sách. Bởi vậy, thơ ông có nhiều dị bản, cho nên nếu bạn đọc nào đọc bài thơ này ở đây có khác với các bản mình đã đọc, đã thuộc, thì cũng đừng ngạc nhiên. “Một là tử địa, hai là tù binh”, tác giả muốn nói cái ý: Một là chết tại trận, thứ hai là bị bắt, nhưng dùng hai chữ “tử địa” hơi tối nghĩa. “Tử địa” là từ Hán Việt, nó có nghĩa là “đất chết” chứ không mang ý chết tại trận!

Nói về ý nghĩa của Chiến thắng Điện Biên Phủ thì thật nhiều, ở bài thơ này, nhà thơ nói về tác động của chiến thắng này tới cuộc đàm phán ở Giơ-ne-vơ, mà đồng chí Phạm Văn Đồng là trưởng đoàn của ta. Rõ ràng nhờ chiến thắng này, mà cuộc hội đàm đó thành công, lập lại hòa bình ở Đông Dương.

Kết thúc bài thơ, là tuyên ngôn của người chiến thắng:

Tổ quốc chúng tôi

Muốn độc lập hòa bình trở lại

Không muốn lửa bom đổ xuống đầu con cái

Đó là đối với người chiến thắng, còn với kẻ bại trận thì Điện Biên là bài học lớn.

“Hoan hô chiến sĩ Điện Biên” là bài thơ cùng tuổi với Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ. Niềm vui chiến thắng được tác giả dồn nén vào từng đoạn, từng câu, sáu mươi năm qua đọc lại, chúng ta như được sống trong ánh hào quang của chiến thắng “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” này.

VƯƠNG TRỌNG