Plei Me là tên gọi một đồn do 4 đại đội thuộc Lực lượng tác chiến bán quân sự (Civilian irregular defense group-CIDG) của ngụy quân Sài Gòn, được Cục Tình báo Trung ương Mỹ (CIA), sau này là Lực lượng đặc nhiệm (USSF) Bộ chỉ huy viện trợ quân sự Mỹ tại Việt Nam (MACV) tổ chức, trang bị và huấn luyện, chủ yếu là người Thượng ở Tây Nguyên hoặc các dân tộc thiểu số, để duy trì an ninh các buôn làng, ngăn chặn sự thâm nhập của Quân giải phóng. Quân số 4 đại đội khoảng 500 người, do 12 cố vấn Mỹ trực tiếp chỉ huy, nằm ở phía Nam-Tây Nam thị xã Pleiku khoảng 45km, cách biên giới Campuchia khoảng 30km. Plei Me được coi là một “cái gai” án ngữ các tuyến hành lang chiến lược từ Bắc vào Nam (đường Trường Sơn-Tây Nguyên), kiểm soát đường tiếp tế, gây trở ngại cho ta trong việc mở rộng căn cứ ở Tây Nguyên. Chính vì vậy, Plei Me được chọn là mục tiêu tiến công đầu tiên của chiến dịch.

Trận Plei Me không chỉ củng cố niềm tin dám đánh và thắng Mỹ của quân và dân ta mà còn gây ra nỗi ám ảnh đối với tướng lĩnh, sĩ quan, binh sĩ quân đội Mỹ, nhất là tổn thất lớn về sinh lực và tâm lý lo ngại khi phải đối mặt với Quân giải phóng miền Nam Việt Nam. Mặc dù chịu tổn thất rất lớn nhưng Mỹ vẫn khuếch trương Plei Me là một thành công của việc thử nghiệm chiến thuật trực thăng vận, một “phát minh” của Đại tướng W.Westmoreland, Tư lệnh MACV ở miền Nam Việt Nam. Ảo tưởng về chiến thắng này đã trở thành nỗi ám ảnh lớn nhất và bị chính các sĩ quan quân đội Mỹ bác bỏ.

Trong bài viết nhan đề: Những bóng ma của Ia Đrăng: Một câu chuyện có thật (Ghosts of the Ia Drang: A firsthand account), đăng trên Historynet, ngày 12-5-2018, William A.Barry, một phi công lái máy bay vận tải C-130B thuộc Phi đội vận tải chiến thuật 774, chuyên làm nhiệm vụ vận chuyển đạn và lương thực từ căn cứ Clark, Philippines đến Nam Việt Nam đã kể lại rằng, một ngày trước khi trở lại căn cứ, Barry nhận được lệnh khởi hành chậm lại để dành ưu tiên cho một chuyến bay khác. Quá trình chờ đợi, Barry đã chứng kiến một cảnh hãi hùng chưa từng có trong cuộc đời mình, một máy bay C-130 chở khoảng 50-60 cáng khiêng người, cao 3 tầng và xếp thành 4 hàng từ Pleiku về. “Tôi bước xuống lối đi bên phải khoang hàng hóa giữa hai hàng cáng xếp chồng 3 chiếc, rẽ trái ở cuối lối đi, đi vòng qua cuối hàng cáng đôi ở lối đi giữa, rồi rẽ trái lần nữa và đi về phía trước xuống lối đi thứ hai cũng có hai hàng. Mỗi cáng chứa một túi đựng xác màu xanh lá cây. Trong một số túi, hình của người lính được vẽ theo chiều ngang từ chân lên đầu. Trong những túi khác, người bên trong có vẻ bị biến dạng. Một số rõ ràng không phải là một thi thể hoàn chỉnh. Một túi, cỡ quả bóng rổ, nằm một mình trên cáng, chỉ chiếm hơn một phần tư không gian cáng. Mỗi túi đựng xác được giữ cố định bằng dây đai ghế. Tất cả đều đã chết. Đây là một chiếc máy bay đầy xác chết”.

leftcenterrightdel

Một số tài liệu, sách báo của Mỹ về chiến dịch Pleiku. 

Neil Sheehan, phóng viên chiến tranh làm việc cho hãng tin UPI và The New York Times tại Sài Gòn, tác giả cuốn “Lời nói dối sáng chói: John Paul Vann và nước Mỹ ở Việt Nam” (A bright shining lie: John Paul Vann and America in Vietnam), Nhà xuất bản Random House, 1988, đoạt Giải thưởng báo chí Pulitzer và Giải sách quốc gia Mỹ (1989), sử dụng trận Ia Đrăng như một nghiên cứu điển hình để minh họa những giả định sai lầm nghiêm trọng làm nền tảng cho chiến lược quân sự và chính trị của Mỹ. Nhân vật trung tâm của tác phẩm, Trung tá John Paul Vann, coi trận đánh này không phải là một chiến thắng mà là một lời cảnh báo thất bại của Mỹ.

Joseph L.Galloway, phóng viên chiến trường, là một trong số ít nhà báo Mỹ có mặt trong trận Plei Me và là đồng tác giả với Trung tướng Harold G.Moore, cuốn sách “Chúng tôi đã từng là những người lính... và còn trẻ: Ia Đrăng-Trận chiến làm thay đổi chiến tranh Việt Nam” (We were soldiers once... and young: Ia Drang-The battle that changed the war in Vietnam), trong bài viết nhan đề “Câu chuyện Việt Nam” (Vietnam story), đăng trên tờ The U.S.News & World Report, tháng 10-1990, đã đưa ra một kết luận hết sức chua xót và thấm thía như sau: “Thất bại ở thung lũng Ia Đrăng (Plei Me) đã làm cho người Mỹ bị suy thoái và sa lầy vào một thập kỷ đẫm máu, đã dẫn 58.000 người Mỹ vào những quan tài bằng nhôm sáng bóng do quân đội Mỹ sản xuất, đã làm hỏng một đời tổng thống, mang lại vết nhơ sâu sắc cho các đời tổng thống khác và đẩy cả dân tộc Mỹ tới chỗ đối lập với chính bản thân mình”.

leftcenterrightdel
 
leftcenterrightdel

 Một số tài liệu, sách báo của Mỹ về chiến dịch Pleiku.

Không chỉ làm cho tướng lĩnh, sĩ quan, binh sĩ quân đội Mỹ và các học giả nước ngoài nể phục về ý chí và tinh thần quả cảm, bất chấp sự vượt trội về trang bị và hỏa lực của Mỹ, trận Plei Me còn gây tâm lý lo ngại cho tướng lĩnh, sĩ quan, binh sĩ quân đội Mỹ khi phải đối mặt với Quân Giải phóng, những người được coi là bậc thầy về khả năng tổ chức chiến đấu, sử dụng các phương pháp tác chiến hiệu quả, kết hợp giữa chiến tranh nhân dân và các kỹ thuật quân sự hiện đại. Khi đề cập đến nghệ thuật ngụy trang, nghi binh, chiến thuật tiến công và phòng ngự của Quân giải phóng, Báo cáo số 3-66 nhan đề “Báo cáo sau chiến đấu-Những bài học rút ra: Chiến dịch Pleiku” (Operations report lessons learned: Pleiku campaign) của Cục Quân lực, Bộ Lục quân Mỹ nhận xét: Về ngụy trang, nghi binh, bộ đội miền Bắc là những bậc thầy về ngụy trang; họ sử dụng các vật liệu có sẵn như lá cây để ngụy trang cơ thể và vũ khí, thậm chí dùng đất để bôi đen khuôn mặt. Họ có thói quen sử dụng hầm hào kể cả khi nghỉ ngơi, ăn uống, đặc biệt là việc giữ nghiêm kỷ luật sử dụng lửa, khói. Về chiến thuật tiến công: Bộ đội miền Bắc sử dụng chiến thuật tiến công rất hiệu quả; sử dụng vũ khí nhỏ, súng cối hạng nhẹ và vũ khí chống tăng nhanh chóng áp sát khu vực mục tiêu để vô hiệu hóa hỏa lực yểm trợ, áp đảo hoặc làm rối loạn lực lượng phòng ngự. Sử dụng chiến thuật tiến công áp đảo một mục tiêu hoặc bao vây các mục tiêu với lực lượng từ 50 đến 75 người; hoặc kết hợp cả hai. Một chiến thuật tiến công phổ biến khác của bộ đội miền Bắc là thực hiện bao vây theo nhóm nhỏ hoặc sử dụng lực lượng nhỏ từ 6 đến 10 người tiến công nhanh các mục tiêu nhỏ, biệt lập. Về chiến thuật phòng ngự: Trận địa phòng ngự của bộ đội miền Bắc được bố trí theo hình chữ “L” ngược, tạo diện tích sát thương lớn và có thể đánh lừa, thu hút lực lượng đối phương đến đúng vị trí để tiêu diệt. Việc bố trí và sử dụng súng máy 12,7mm vừa tiến công các mục tiêu mặt đất, vừa bắn máy bay bay thấp cho thấy kỹ năng thuần thục của họ trong việc sử dụng hỏa lực tầm gần để chặn đứng các đường xâm nhập.

Cách đánh của Quân giải phóng, nhất là nghệ thuật “nắm thắt lưng địch mà đánh” được giới sử học và các nhà quân sự Mỹ và nước ngoài đánh giá là có hiệu quả cao. Theo công trình nghiên cứu “Cuộc vây hãm Plei Me từ 19 đến 29-10-1965” (The siege of Plei Me: 19-29 October 1965), do Project CHECO Southeast Asia Report: “Tại Plei Me, kế hoạch của Quân đội nhân dân Việt Nam không phải là tràn ngập trại, mà là nhử lực lượng chủ lực của Quân đoàn 2 ra khỏi Pleiku để tiêu diệt; tuy nhiên, các cuộc không kích đã gặp khó khăn khi phải giội bom và rốc két vào quân địch chỉ cách hàng rào trại vài mét. Đây là chiến thuật “bám thắt lưng của họ”, sau này được lực lượng cộng sản sử dụng trong suốt chiến tranh Việt Nam”.

 VŨ HỒNG KHANH