QĐND - Đợi đến năm 1982, Phượng đủ 18 tuổi, Trung úy Dư đã đến nhà trực tiếp hỏi cô: “Phượng yêu ai chưa?”. Phượng không lí nhí như lần trước mà nhìn vào mắt anh, hỏi: “Anh Dư đoán xem!”. Anh hóm hỉnh: “Lính pháo binh chỉ biết đánh giỏi, bắn trúng địch. Còn đoán định và những thứ khác vụng lắm!”. Phượng quả quyết: “Pháo binh mà vụng! Hôm ấy, nếu không phải là anh mà là người khác giúp thì chắc gì đã giữ được nguyên vẹn khăn quàng cho em!”. Trung úy Dư không kìm được, thốt ra thành tiếng: “Phượng yêu lính pháo thật không?”…
“Ai” cũng nhớ anh...
Khỏe mạnh, điển trai, miệng nói “mắt cũng nói”, lại hoạt ngôn, thế nên không phải đến lúc trở thành quân nhân, mà ngay từ khi ngồi trên ghế trường cấp III (nay là trung học phổ thông), Nguyễn Đức Dư (ở Ô Mễ, Hưng Đạo, Tứ Kỳ, Hải Dương) đã có không ít bạn gái để ý. Song, là một chàng trai có chí, nên phải đến sau khi tốt nghiệp Trường Sĩ quan Pháo binh và tham gia chiến dịch bảo vệ biên giới phía Bắc năm 1979, Trung úy Nguyễn Đức Dư mới xúc tiến tìm ý trung nhân.
 |
| CCB Nguyễn Đức Dư và vợ, năm 2016. |
Dịp đó, Kim Phượng ở gần nhà anh-cô gái mà lâu nay vẫn bị anh nghĩ là còn bé-phổng phao trắng hồng trên chiếc xe đạp mới coong, 6 giờ sáng hằng ngày lướt qua cửa nhà anh để đến Trường cấp III Tứ Kỳ. Cô không biết rằng, từ trong căn nhà ven đường ấy, có chàng trung úy pháo binh đã dõi theo mình.
Một hôm, Phượng sơ suất để chiếc khăn quàng cổ tuột xuống, bị xích xe đạp cuốn, ngay trước nhà anh. Cô loay hoay gỡ, trông đến là tội! Trung úy Dư không bỏ lỡ thời cơ, từ trong nhà lao ra: “Phượng để anh…”. Người giúp khéo tay, giữ được chiếc khăn quàng chỉ bị hằn dấu những răng xích xe đạp mà không bị rách. Phượng ửng hồng đôi má, lí nhí: “Em cảm ơn anh Dư!” rồi từ từ đạp xe chứ không “lướt gió” như mọi khi…
Giữa năm 1981, Phượng tốt nghiệp lớp 10 (tương đương lớp 12 trung học phổ thông bây giờ). Do văn hay chữ tốt, lại có tài sao bản mẫu chim, cây, hoa, cá ra vải rồi thêu thành những tác phẩm đẹp mê hồn thu hút khách hàng, nên cô đã bị chính cái nghề thủ công độc đáo ấy níu giữ. Không ít tài trai “trồng cây si” trước ngõ nhưng Phượng cứ ở nhà thêu thùa, may vá, “Tường đông ong bướm đi về mặc ai”!
“Đã là sĩ quan pháo binh thì càng không thể hấp tấp, thiếu cẩn trọng được”-Trung úy Dư nghĩ vậy và đợi đến năm 1982, Phượng đủ 18 tuổi, anh đã đến nhà trực tiếp hỏi cô: “Phượng yêu ai chưa?”. Phượng không lí nhí như lần trước mà nhìn vào mắt anh, hỏi: “Anh Dư đoán xem!”. Trung úy Dư hóm hỉnh: “Lính pháo binh chỉ biết đánh giỏi, bắn trúng địch. Còn đoán định và những thứ khác vụng lắm!”. Phượng quả quyết: “Pháo binh mà vụng! Hôm ấy, nếu không phải là anh mà là người khác giúp, thì chắc gì đã giữ được nguyên vẹn khăn quàng cho em!”. Trung úy Dư không kìm được, thốt ra thành tiếng: “Phượng yêu lính pháo thật không?”… Phượng đang chọc chọc chiếc kim thêu xuống tấm thảm, ngước lên cười ý nhị.
Mùa xuân năm 1982, tại đơn vị pháo binh nơi Trung úy Dư công tác ở mãi tận miền biên ải phía Bắc, Phượng không thể vô tình với khúc nhạc trên loa phóng thanh réo rắt, nao nao: “Chiều biên giới em ơi! / Có nơi nào xanh hơn/ Như chồi non cỏ biếc/ Như rừng cây của lá/ Như tình yêu đôi ta…”. Trung úy Dư rất trân trọng việc Phượng quyết định lên biên giới thăm anh và xúc động khi cô thổ lộ: “Ở nhà, hai bác vẫn khỏe. “Ai” cũng nhớ anh…”.
Bài thơ thay nhẫn cưới
Tân hôn của Thượng úy Nguyễn Đức Dư và thanh nữ Kim Phượng diễn ra vào ngày 20 tháng Chạp năm Quý Hợi-1983 tại quê nhà. Sau phần lễ nghi, chú rể đọc tặng cô dâu bài thơ “Vợ lính” do mình sáng tác: “Anh nhập ngũ (1974) em cũng vừa lên Đội (thiếu niên nhi đồng)/ Anh thề dưới Đảng kỳ, em dự lễ quàng khăn/ Hai đứa mình cùng nhau đã lớn lên/ Anh đâu nghĩ nay mình thành chồng vợ/ Mạch giếng đồng quê nuôi ta từ đó…”.
Bỗng nhiên Dư dừng lại, thủ thỉ: “Anh chưa sắm được nhẫn cưới! Em có buồn?”. Kim Phượng long lanh đôi mắt: “Nhẫn cưới hả anh? Thật là quý! Nhưng nếu đánh đổi, em xin lấy bài thơ”. Rồi cô đọc nối tiếp: “Dù đồng bằng hay biên giới xa xôi/ Cùng làm đẹp phần việc mình đã nhận/ Ruộng đồng quê hương em chăm hoa mười tấn/ Biên giới anh sẵn sàng bảo vệ hậu phương”.
Thượng úy Dư ngỡ ngàng: “Sao em thuộc bài thơ?”. Phượng chân thành: “Lúc là phẳng áo cưới cho anh, em thấy tờ giấy trong túi áo. Em đọc rồi nhập tâm. Em rất hãnh diện về nó”. Dư vui quá, tiếp luôn: “Mỗi phút giây bao nỗi nhớ niềm thương/ Tấm thảm em thêu có hình anh trong đó/ Trận địa trên đồi cao lộng gió/ Có hương lúa quê mình và có cả tình em/ Ta thương nhau trong trọn vẹn niềm tin/ Vui-khó chia đôi, chữ TÌNH trọn một”. Phượng thêm náo nức: “Từ đây nhé, đêm ngày giữ chốt/ Hãy vững lòng, hậu phương đã có em/ Cha mẹ già, đêm sớm chiều hôm/ Ấp lạnh, quạt nồng, phận em lo liệu”. Dư cũng thêm ân cần, lãng mạn: “Là vợ lính, rồi đây em sẽ hiểu/ Ta nuôi yêu thương bằng ngày tháng cách xa/ Muốn cây đời hạnh phúc rộ hoa/ Phần vun tưới, ta cùng làm em nhé!/ Sau buổi lễ tân hôn vui vẻ/ Hãy cùng nhau xây dựng tương lai”. Rồi không ai bảo ai, hai người cùng đọc: “Xuân đang về, đào đua nở bên mai/ Được ngắm hoa, ta nhớ người chăm bón/ Nuôi chí hướng ta đã cùng chung chọn/ Hẹn xuân sau vui đón hoa đời!”.
Cầu được ước thấy, năm 1986, Dư viết thơ mừng con gái đầu lòng: “Bính Dần-con gái Ngọc Hoa/ Mậu Thìn (1988) dũng khí ắt là con trai”. Phượng ngồi thêu, muốn tiếp vần mà chưa biết làm thế nào, nhìn vào bức tranh tứ quý đang hoàn thiện, cô buột miệng: “Bốn mùa tùng, cúc, trúc, mai/ Mừng anh lính pháo có tài thơ duyên”. Không ngờ, năm 1988 anh chị sinh con trai thật, đặt tên là Nguyễn Đức Dũng. Và tiếp đó hai người sinh cháu út Nguyễn Thị Quỳnh Mai”.
Sau khi chuyển vị trí từ Phó trung đoàn trưởng, Tham mưu trưởng Trung đoàn 120 Pháo binh thuộc Sư đoàn 327, Quân khu 1 sang chức vụ Chủ nhiệm Kho K56, Quân khu 1 vào năm 1993, năm 2014 Đại tá Nguyễn Đức Dư trở về sống cùng vợ và gia đình tại quê hương Ô Mễ. Bầu bạn từng dự lễ tân hôn của hai người hồi ấy, thường lui tới muốn nghe ông kể lại chuyện tình của chàng trung úy pháo binh năm xưa. Lần nào cũng vậy, khi ông kết thúc câu chuyện, bà Kim Phượng cũng “chốt” lại: “Yêu vì đức, trọng vì tài/ Vững bền thì bởi những bài thơ duyên”.
BÀI VÀ ẢNH: PHẠM XƯỞNG