Bảy ngày hạnh phúc
Sinh ra trên quê hương Đức Thắng (nay là thị trấn Thắng), huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang, Ngô Văn Nhỡ nhập ngũ và trở thành chiến sĩ xe tăng thuộc Lữ đoàn 203 khi vừa tròn 20 tuổi. Bấy giờ, gia đình anh có 3 người con trai đã nhập ngũ (trong đó, em trai Ngô Văn Hảo hy sinh từ năm 1968; anh trai cả hy sinh năm 1973), Ngô Văn Nhỡ thuộc diện miễn gọi nhập ngũ. Thế nhưng, theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, anh viết đơn tình nguyện bằng máu xin được lên đường tiếp bước các anh, thực hiện nghĩa vụ của “người trai thời loạn”.
Còn Quách Thị Loan, sinh năm 1948, là người cùng ở xã Đức Thắng. Năm 1968, Loan nhập ngũ và trở thành chiến sĩ Trung đoàn 49, Tỉnh đội Hà Bắc, sau khi tham gia khóa huấn luyện quân y thì được điều về làm y tá tại Tỉnh đội Hà Bắc. Gia đình sinh sống ở hai thôn nằm kề nhau nên từ lâu, đôi bạn trẻ đã được hai bên gia đình vun vén. “Anh Nhỡ có dáng người gầy, dong dỏng cao và khá kiệm lời. Lần đầu tiên đến nhà tôi đặt vấn đề tìm hiểu trong một lần về phép, anh không giới thiệu tên mà lại bảo là con ông Lẫm, bà Sửu ở thôn bên cạnh. Được đơn vị cho nghỉ phép một tuần, thầy u bảo anh đến thăm em và gia đình nên anh sang...”, bà Loan bật cười khi nhớ lại khoảnh khắc đánh dấu bước ngoặt của cuộc đời mình.
    |
 |
Bà Quách Thị Loan cùng con trai và người thân tại Lễ truy tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân đối với liệt sĩ Ngô Văn Nhỡ. Ảnh: DUY THÀNH |
Lời bày tỏ ngập ngừng, bối rối đến đỏ lựng mặt cả tiếng đồng hồ ấy của chàng lính tăng Ngô Văn Nhỡ đã chiếm được thiện cảm của nữ y tá Quách Thị Loan. Từ đây, tình cảm của hai người lớn dần theo năm tháng. Cho đến tháng 9-1973, trước khi vào chiến trường miền Nam, Ngô Văn Nhỡ được đơn vị cho về phép thăm gia đình. Lúc này, tình cảm cũng đã chín muồi, hai người quyết định báo cáo đơn vị và xin phép gia đình tổ chức đám cưới. “Bảy ngày phép năm ấy là bảy ngày hạnh phúc của chúng tôi. Đôi lúc chúng tôi cũng thắc thỏm lo nghĩ, không biết chiến tranh loạn lạc kéo dài bao lâu, tương lai sẽ ra sao khi chồng miền Nam, vợ miền Bắc, anh lại còn mải chiến đấu liên miên!”, bà Loan bồi hồi tâm sự.
Tuy nhiên, những tâm tư ấy nhanh chóng qua đi, đôi bạn trẻ tận hưởng niềm hạnh phúc đôi lứa, với lời hẹn ước cùng nhau vững tâm vượt qua mọi khó khăn, xa cách, vì ngày thống nhất non sông.
“Vạn dặm” thăm chồng
Thấy Ngô Văn Nhỡ hết phép, trở lại đơn vị và đã hành quân vào chiến trường từ lâu mà con dâu chưa có tin vui, bố anh là ông Ngô Văn Lẫm động viên con dâu vào miền Nam thăm chồng, bao giờ “có kết quả” hãy về. Ông quyết định bán con trâu, là sản nghiệp giá trị nhất của gia đình để lấy tiền lộ phí cho con dâu mang theo trên hành trình tìm chồng.
Bà Loan kể: “Trong khi tôi còn lưỡng lự không đành lòng để bố mẹ già thiếu người chăm sóc thì hai cụ lại tràn đầy quyết tâm. Phần vì thương tôi còn trẻ, chưa quyện hơi chồng đã phải chia xa, phần vì mong có đứa cháu trai nối dõi tông đường. Bố mẹ tôi e ngại chiến tranh còn ác liệt, không biết sẽ kết thúc khi nào. Nếu may mắn, anh Nhỡ còn sống trở về thì liệu cơ thể có còn lành lặn hay không. Nhà có 4 anh em trai thì 3 người đã ra trận, hai người là liệt sĩ, mới có một mụn cháu gái...”.
Thương bố mẹ chồng cũng là nghĩ cho mình, bà Loan quyết định khăn gói lên đường tìm chồng. Nghe tin đơn vị ông sau khi kết thúc 81 ngày đêm bảo vệ Thành cổ Quảng Trị đã trở ra Đông Hà xây dựng lực lượng, học tập chính trị và tăng cường huấn luyện, sẵn sàng nhận nhiệm vụ chiến đấu, thế là lúc thì đi bộ, khi thì bắt xe khách hoặc nhảy tàu, cô vợ trẻ Quách Thị Loan di chuyển bằng đủ loại phương tiện, bắt đầu hành trình vượt hàng trăm cây số tìm nơi đóng quân của đơn vị chồng. Rất may là đến Hà Tĩnh, bà gặp xe của đơn vị chồng ra miền Bắc công tác, đang trên đường trở vào Quảng Trị nên đã xin đi nhờ. Vậy là, đầu năm 1974, tại chiến trường Cửa Việt (Quảng Trị), hầm hội trường dã chiến đã được đơn vị thiết kế một “phòng hạnh phúc” để Tiểu đoàn trưởng Ngô Văn Nhỡ đón vợ. Hai tháng bên nhau trong sự chia sẻ, đồng cảm của đồng đội, tình yêu của họ như được tiếp thêm sức mạnh.
    |
 |
Bà Quách Thị Loan (người đứng) tại quê nhà. Ảnh: VĂN VIỆT |
Là một trong những người bạn chiến đấu thân thiết của đồng chí Ngô Văn Nhỡ, Thiếu tá, cựu chiến binh Nguyễn Hữu Cử (hiện trú tại xã Phạm Hồng Thái, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên) kể: “Kết thúc cuộc chiến đấu 81 ngày đêm bảo vệ Thành cổ Quảng Trị, đơn vị tôi được lệnh trở ra Đông Hà học tập chính trị, tiếp tục thực hành huấn luyện và sẵn sàng nhận lệnh chiến đấu. Sự có mặt của cô Loan lúc ấy không chỉ khiến không khí đơn vị vui vẻ hơn mà còn cho chúng tôi động lực và niềm tin với người thân nơi quê nhà. Tôi nhớ mãi trước hôm chia tay chồng trở ra miền Bắc, cô Loan đã ôm anh Nhỡ khóc rất to khiến cả đơn vị ngỡ ngàng. Hỏi ra mới biết cô ấy thấy dấu hiệu kỳ nguyệt sự đến nên không giấu nổi cảm xúc thất vọng lẫn tủi thân. Anh Nhỡ vừa bình tĩnh an ủi, động viên vợ, vừa gọi đồng chí quân y đơn vị đến. Sau khi nghe chuyện, đồng chí quân y lại cười vui vẻ và khẳng định chắc nịch, cô Loan đã có hỷ mạch...”.
Ngày người vợ trẻ trở ra miền Bắc, một sinh linh bé nhỏ đã hình thành. Mầm sống ấy lớn dần lên theo bước hành quân chiến đấu từ miền duyên hải cho đến đô thị Sài Gòn của Tiểu đoàn trưởng Ngô Văn Nhỡ. Nhớ lời dặn của chồng, nếu đẻ con trai thì đặt tên là Việt, con gái thì đặt tên là Hà để kỷ niệm mảnh đất Cửa Việt, Đông Hà đã gắn bó với đời quân ngũ và tình vợ chồng của hai người. Vì thế, khi sinh con trai, bà Loan đã đặt tên con là Ngô Văn Việt. Ôm con trai mỗi ngày một lớn, bà Loan hồi hộp đón chờ ngày gia đình đoàn tụ theo lời hẹn ước với chồng trước khi chia tay.
Nhưng sự trớ trêu của chiến tranh đã cướp đi niềm hy vọng của bà. Đúng ngày đất nước thống nhất, khi con trai tròn 1 tháng 20 ngày thì Tiểu đoàn trưởng Ngô Văn Nhỡ anh dũng hy sinh ngay trước cửa ngõ Sài Gòn. Nhớ về sự kiện đau thương đó, Chính trị viên Tiểu đoàn 1 Nguyễn Hữu Cử xúc động kể: “Sáng 30-4-1975, anh Nhỡ còn hẹn tôi hòa bình rồi sẽ về quê thăm vợ con anh. Chẳng ngờ đến khoảng hơn 9 giờ, qua điện đàm nội bộ, tôi liên tục nhận được tín hiệu báo: 01.02 (nghĩa là Tiểu đoàn trưởng gọi Chính trị viên). Vừa bấm nút nhận, tôi rụng rời chân tay khi có hồi đáp: 01.018 (nghĩa là Tiểu đoàn trưởng đã hy sinh). Bấy giờ không thể để lỡ thời cơ chiến đấu, chúng tôi buộc phải nén đau thương, tiếp tục thực hiện nhiệm vụ. Vì vậy, tôi cho xe cơ động lên thay thế vị trí chỉ huy theo quy ước và nén nước mắt, hạ lệnh hành tiến. Sau này về gặp cô Loan, kể lại tình huống anh Nhỡ hy sinh, tôi cũng bật khóc!”.
Tin chồng hy sinh khiến người vợ trẻ gần như suy sụp. Nhưng được sự động viên của gia đình và đồng đội, nén chặt nỗi đau, bà Loan sống trong niềm an ủi là cậu con trai lớn lên mỗi ngày một khôi ngô giống chồng.
Đến nay, người phụ nữ tảo tần ấy vẫn vẹn tròn thủy chung thờ chồng và là chỗ dựa tinh thần cho con trai Ngô Văn Việt trưởng thành, ổn định cuộc sống. Hiện bà đang sống tại quê nhà bên con cháu cùng niềm vui sáng tác thơ ca trong Câu lạc bộ thơ Hương Quê.
BÍCH TRANG - VĂN TÁM