Trong căn nhà nhỏ nép mình bên hàng cây bạch đàn thưa lá, ông Lê Hà đưa cho tôi xem tấm ảnh đen trắng, bảo: “Đây là chú, đây là ông Thôi Văn Nam, đây là ông Sơn nè. Tấm ảnh này là kỷ vật thiêng liêng từ năm 1962, chú giữ rất cẩn thận”. Ông Hà bắt đầu câu chuyện khi tôi hỏi “Bác còn kỷ vật nào ngày đầu vượt biển Lộc An không?”, ông Hà rưng rưng nhớ lại ký ức...

59 năm trước, ngày 17-2-1962, ông Hà lúc đó mới 19 tuổi, rời cửa biển Lộc An (Bà Rịa-Vũng Tàu) trên con tàu gỗ cùng 5 chiến sĩ là Nguyễn Sơn, Thôi Văn Nam, Trần Văn Phủ, Nguyễn Văn Thanh, Võ An Ninh, bí mật vượt biển ra miền Bắc tiếp nhận vũ khí trang bị, đưa về miền Nam. Trước ngày vượt biển, Ban chỉ huy đơn vị “CR” giao nhiệm vụ: “Đường dài gian khổ. Đây là chuyến vượt biển đặc biệt. Đơn vị chờ đón các đồng chí hoàn thành nhiệm vụ trở về”.  

Tháng 2, cửa biển Lộc An gió lộng. Con tàu gỗ mui trần nhỏ bé lặng lẽ rời bến, bắt đầu cuộc hải trình gian khổ". Ông Hà kể: Sau 13 ngày “đêm đi ngày nghỉ-bí mật vòng tránh-vượt sóng chống gió”, tàu của chúng tôi đến vịnh Cam Ranh (Khánh Hòa) thì bị hỏng máy. Mặc dù đã ngụy trang thành tàu đánh cá của dân địa phương, nhưng chiếc tàu vẫn bị tàu thủy quân lục chiến của địch phát hiện, bắt giữ. Chúng đưa chúng tôi về giam tại nhà lao Khánh Hòa. Gần 3 tháng trong tù, không có được chứng cứ, địch phải thả chúng tôi ra.

leftcenterrightdel
 Chiến sĩ Lê Hà (hàng sau, đứng giữa) cùng các đồng đội trước giờ vượt biển Lộc An ra Bắc. Ảnh do nhân vật cung cấp

Quyết giữ lời thề không hoàn thành nhiệm vụ không trở về, chúng tôi tu sửa lại con tàu bị hỏng máy và tiếp tục cuộc hành trình ra Bắc... Lương thực, thực phẩm chỉ có 1 bao gạo, 1 can nước, 2 can dầu, ít rau nhặt từ chợ. Với số lượng đó, tiết kiệm lắm cũng chỉ dùng được hai tuần. Trên nắng, dưới mặn, lấy gì mà sống? Đói thì có thể ráng chịu, nhưng khát thì không thể. Lênh đênh trên biển, đói và khát, nhiều lúc chúng tôi phải uống nước tiểu của mình. Thế rồi chúng tôi nghĩ ra cách múc nước biển lên đun như kiểu nấu rượu để lấy nước ngọt. Ông Sơn dùng cái nồi nấu cơm, đổ nước biển trong đó, úp vung lên và nấu. Hơi nước ngưng tụ trên nắp vung. 6 anh em chia nhau liếm nắp vung để cầm cự...

Sau 73 ngày lênh đênh trên biển, chúng tôi lạc vào đảo Hải Nam, Trung Quốc. Tại đây, chúng tôi được người dân và cơ sở của ta cho ăn uống và quần áo mặc. Một buổi sáng, một người to cao đến hỏi: “Các đồng chí từ đâu tới, cứ nói thật”. Sau khi cân nhắc các yếu tố, thay mặt cả nhóm, ông Sơn báo cáo nhanh: “Chúng tôi là Quân Giải phóng được cử ra Bắc để tiếp nhận vũ khí”. Người to cao đó đến bắt tay từng người một. Sau này, chúng tôi mới biết đó là đồng chí Phạm Hùng. Hai ngày sau, các thủ tục giấy tờ làm xong, chúng tôi được đồng chí Phạm Hùng đưa về Hà Nội. Tại đây, 6 anh em được học tập chính trị, giác ngộ cách mạng...".

Ông Lê Hà đến bên bàn thờ thắp hương trước di ảnh má Mười Riều, người đã bán 23 cây vàng và đôi hoa tai ngày cưới để mua gỗ đóng thuyền cho ông và đồng đội vượt biển. Ông Hà nghẹn ngào: “Má tôi mất năm 2015, thọ 93 tuổi. Lúc còn sống, tôi nghe má kể lại, ngoài hiến 23 cây vàng, má còn hiến 100 đồng bạc và xin làm hậu cứ bắt liên lạc, tiếp tế lương thực, tổ chức vận chuyển vũ khí khi đoàn tàu từ Bắc trở về”.

Chuyến vũ khí đầu tiên cập bến Lộc An lúc nửa đêm 26-9-1963 chở 18 tấn vũ khí, do đồng chí Lê Văn Một làm Thuyền trưởng, được vận chuyển vào kho cất giấu. Từ năm 1963 đến 1965, má Mười Riều tổ chức đón và chuyển hơn 50 tấn vũ khí của 3 lượt tàu không số. Số vũ khí sau đó được chuyển chi viện cho chiến trường miền Nam, 2 chuyến vũ khí sau cùng chi viện cho chiến dịch giải phóng Bình Giã...

Bài và ảnh: MAI THẮNG