QĐND-A-lếch-xây Pê-trô-vích Ma-rê-xi-ép là anh hùng nổi tiếng của Không quân Xô-viết. Từ ngày đầu cuộc Chiến tranh ái quốc vĩ đại của nhân dân Liên Xô chống phát xít Đức, Ma-rê-xi-ép chỉ huy một biên đội thuộc trung đoàn không quân cận vệ 63. Tham gia các trận đánh máu lửa với không quân Đức, ông đã hạ được 4 máy bay tiêm kích của kẻ thù. Tháng 3-1942, máy bay của ông bị địch bắn hỏng, ông bị thương nặng rơi xuống một vùng quân địch kiểm soát. Suốt 18 ngày đêm liền, ông cố bò lết về vùng mặt trận của mình. Sau khi buộc phải cắt bỏ hai chân, ông xin trở về đơn vị tiếp tục chiến đấu, tham gia không chiến trên các mặt trận ác liệt. Ông đã hạ thêm 7 máy bay của phát xít, yểm trợ đồng đội bắn rơi nhiều chiếc, hoàn thành 86 trận không chiến.
Từ các năm 1944-1946, ông làm việc ở Ban tham mưu của Lực lượng không quân Xô-viết. Từ năm 1956, ông là Thư ký thường trực và từ 1983 là Phó chủ tịch thứ nhất Hội Cựu chiến binh Liên Xô. Chiến công của Ma-rê-xi-ép được phản ánh trong cuốn truyện của nhà văn Bô-rít Pô-lê-vôi “Chuyện một con người chân chính” (1946).
Ma-rê-xi-ép là người anh hùng quả cảm, can trường, quyết vượt qua hiểm nguy và chịu đựng đau đớn để giành lại sự sống; là thần tượng đương thời của nhiều thế hệ thanh niên các dân tộc trong Liên bang Xô-viết.
Như muốn “hâm nóng” lại tinh thần yêu nước, yêu cuộc sống của người xưa ấy, Vích-to Ma-rê-xi-ép – con trai của người anh hùng, đã kể lại một số câu chuyện đời thường của bố mình cho bạn đọc tuần báo “Luận chứng và Sự kiện” của nước Nga hôm nay.
Quan niệm về vinh quang
- Từ nhỏ, hằng ngày tôi thấy bố tôi đưa “nửa đôi chân” mình rời khỏi giường ngủ và ôm chặt lấy bộ dây đai từ bộ chân giả. Khi lớn lên, tôi bắt đầu nhận thấy những nét đặc biệt về tính cách của người cha: Làm mọi điều dù phải hy sinh quên mình, vô tư chịu nhận cái bất lợi về mình vì lợi ích chung của mọi người, của xã hội, đặc biệt đặt Tổ quốc Xô-viết lên trên tất cả.
Khi người ta nói: “Ma-rê-xi-ép, anh là một huyền thoại” thì bố tôi cố tự ngăn chặn mình khỏi cái vinh quang đó: “Ấy, các bạn muốn biến tôi thành cái gì đây? Tôi là huyền thoại gì kia chứ! Phải chăng chỉ có mình tôi chiến đấu bảo vệ Tổ quốc?”. Các bạn chỉ cho ông: “Đấy, nhà văn Bô-rít Pô-lê-vôi viết về anh trong cuốn truyện “Chuyện một con người chân chính” là chính xác, không sai chút nào. Chính nhờ đó mà anh đã nổi tiếng, anh đang giúp đỡ mọi người tăng thêm nghị lực sống đấy!”. Ông đã nhận được vinh quang và cũng coi đó là một gánh nặng xã hội, một nghĩa vụ phải giúp đỡ mọi người bằng uy tín của mình. Nhưng ông cũng cố đề phòng, ngăn chặn để con trai mình không phải được ưu đãi gì, mà phải như những công dân bình thường khác trong xã hội.
Về việc đã qua
Bố tôi nói về chiến tranh chỉ khi có ai hỏi tới. Ông không kể chuyện mình đã chiến đấu thế nào, bị thương rồi bò lết đi suốt 18 ngày đêm để tự cứu mình ra sao. Ông không nói gì ngay cả việc bị mất hai chân mà vẫn nằng nặc xin trở lại đơn vị chiến đấu, cả việc bắn rơi thêm 7 máy bay địch nữa trên các mặt trận nóng bỏng. Về sau, từ 1944, bố tôi được Bộ chỉ huy quân chủng điều về cơ quan tham mưu làm việc, giúp đỡ các phi công trẻ mới bước vào trận chiến.
Tôi được nghe kể lại rằng, tại thôn Pláp trên triền đồi Van-đây, nơi người ta tìm thấy bố tôi bê bết máu với đôi chân bị gãy nát, người dân nơi đây đã làm một con đường nhỏ mang tên Ma-rê-xi-ép, đặt một tảng đá lớn khắc dòng chữ “Nơi đây đã tìm thấy Trung úy Ma-rê-xi-ép”. Người ta đã kịp đưa bố tôi tới quân y viện. Tại bệnh viện, không thể nào chữa được hai chân ông đã bị nhiễm trùng nặng và bị hoại tử hoàn toàn. Họ đẩy xe giường chở ông về phía nhà xác. Nhưng đã xảy ra chuyện không ngờ khi giáo sư y khoa Te-rê-bin-xki đi qua đó. Ông hỏi: “Ai nằm trên đó?”. Các nhân viên cuốn tấm ga trên người bố tôi lên và trả lời: “Đây là một trung úy trẻ đã bị hoại tử”. Giáo sư ra lệnh: “Hãy đưa anh ấy lên bàn mổ!”.
 |
Anh hùng A-lếch-xây Pê-trô-vích Ma-rê-xi-ép. |
Khi được đưa tới bàn mổ, bố tôi tỉnh dậy và cầu khẩn: “Hãy để lại chân cho tôi, tôi là một phi công, còn tiếp tục chiến đấu”. Bác sĩ chỉ gật đầu: “Vâng, tất nhiên rồi, mọi việc sẽ ổn thôi”. Nhưng sau khi tỉnh dậy khỏi thuốc mê, nhìn vào tấm ga: Tấm vải còn mà đôi chân thì biến mất. Bố tôi bật khóc…
Vừa lành vết thương, đi được nhờ nạng gỗ, bố tôi nằng nặc xin trở lại trung đoàn. Vị trung đoàn trưởng kêu lên: “Người ta cho tôi một chiến sĩ không chân? Ai sẽ nhận anh đây?”. Người chỉ huy phân đội A-lếch-xan-đơ Tri-xlốp tiến tới nói: “Tôi xin nhận!”. Phi công Xéc-gây Pê-tơ-rốp được phân công cùng cặp với bố tôi. Về sau này, chú Xéc-gây nói: “Lúc đầu tôi phân vân, mình sẽ làm việc thế nào đây với người không chân này. Nhưng sau đó thấy được sự tung hoành bay lượn của anh ta nên tôi đã yên lòng”. Kết quả thật bất ngờ: Trong hai trận đánh tiếp nhau, bố tôi hạ được 2 máy bay Đức, nhờ đó cứu được chỉ huy phân đội và cả đồng đội Pê-tơ-rốp.
Về sau tôi hỏi bố: “Bố trở lại trung đoàn như thế nào? Lần đầu không chiến ra sao?”. Ông trả lời gọn lỏn: “Ngồi vào buồng lái và bay lên. Cần phải đánh và bố đã bắn hạ chúng”. Ông không muốn nhắc lại thương tật của mình vì ông yêu cuộc sống, coi mình như một người hoàn toàn lành lặn. Một thời bố tôi làm Thư ký thường trực của Hội Cựu chiến binh Liên Xô. Văn phòng của ông đặt ở tầng hai của tòa nhà. Người ta đề nghị đưa văn phòng này xuống tầng một, ông không chịu: “Không cần, tôi sẽ tự đi lên tầng hai”. Hơn nữa, nhờ hai chân giả, ông đã bước đi mà không cần chống nạng. Nhân kỷ niệm ngày sinh của bố tôi, Nhà nước tặng chiếc xe con “Môxcơvích” thay chiếc “Zapôrô” cũ kỹ. Tại nhà máy chế tạo ô tô, các kỹ sư muốn lắp cho ông bộ điều khiển đặc biệt bằng tay để lái xe an toàn. Bố tôi từ chối: “Không cần gì cả, tôi tự làm lấy”. Và mãi tới tuổi 75, ông vẫn tự lái xe an toàn. Suốt đời ông chỉ dùng một bộ chân giả từ ngày đầu, không phiền hà đến ai.
Về xã hội
- Bố tôi luôn đặt lợi ích xã hội lên trên lợi ích riêng tư. Hồi đó, ở một nhà máy người ta sản xuất những bộ phận chân tay giả cho thương binh, người tàn tật. Họ không chú ý đến những phương tiện giao thông cá nhân gọn nhẹ và thuận tiện cho người thương tật. Ông tới trụ sở Trung ương Đảng cộng sản Liên Xô yêu cầu nghiên cứu chế tạo một số xe gọn nhẹ riêng cho thương binh và người tàn tật.
Có một thầy giáo kể lại câu chuyện về một cô gái trẻ “chán sống vì bệnh tật hành hạ”. Cô ấy đã nằm lỳ trên giường, không muốn rời khỏi chăn. Người thầy giáo này đã mang tới cuốn sách “Chuyện một con người chân chính” của Pô-lê-vôi, yêu cầu đưa cho bố tôi viết lời khuyên của mình vào cuốn sách cho cô gái, những mong có giúp gì cho cô ta. Bố tôi cầm sách và nói: “Tôi sẽ tự đi tới cô gái đó”. Ông tới nói chuyện với cô. Vậy là hôm sau, cô gái đó đã đứng lên và đi lại, cố gắng chữa bệnh.
Với đời thường, bố tôi sống rất giản dị, thậm chí như khổ hạnh. Cái giường ông nằm thì chật hẹp, khó quay trở với một con người bị mất chân như ông. Bố tôi về sau này thường nói với chúng tôi rằng, ông mong sao toàn nhân dân Xô-viết vượt qua được tất cả mọi thử thách để có được cuộc sống hạnh phúc. Bố tôi rất “dị ứng” với cuộc “cải tổ” của Goóc-ba-chốp, vì cho đó là “cuộc phá hoại Liên bang”.
Về tình yêu
- Nhiều người nói rằng, có rất nhiều phụ nữ yêu bố tôi, không kể gì việc ông bị mất đôi chân.
Ngay từ khi chưa cưới nhau, bố mẹ tôi đã cùng làm việc ở Ban tham mưu của Lực lượng không quân. Mẹ tôi kể lại: Một hôm bà được gọi lên phòng tổ chức để trả lời một số câu hỏi của đồng chí trưởng phòng về đời sống vật chất, điều kiện sinh hoạt, về ý thích, quan điểm,… Thì ra, vị trưởng phòng này là bạn của bố tôi, và qua đó để bố tôi hiểu được người vợ tương lai của mình. Sau đó, bố tôi mời mẹ tôi đi xem vở ca kịch “Ép-ghê-ni Ô-nê-ghin” của Pu-skin ở Nhà hát Lớn. Khi màn vừa mở, bỗng nhiên bố bế mẹ tôi ngồi lên đùi mình và nói nhỏ: “Chị có muốn nghe tôi kể chuyện tiếu lâm không?”. Mẹ rất lúng túng: “Anh ơi để sau, để sau!...”. Mọi người khuyên bố: “Nào, A-lếch-xây, hãy cưới Ga-li-a đi. Hãy chăm sóc cô ta”. Tình yêu đó bền chặt và hạnh phúc cho tới cuối đời họ.
Bố tôi cũng yêu Tổ quốc vô bờ bến. Trong đó không có gì căm giận phương Tây, mà trái lại, khi đi ra nước ngoài lại rất tự hào với đất nước mình, với Mát-xcơ-va, với Crem-li, với Vôn-ga, với Xi-bia, với Xa-kha-lin,… Nhưng bố tôi lại rất bức xúc, trăn trở vì sự tan rã của siêu cường Xô-viết, nhất là vì hơn 300 triệu dân đã từng cùng nhau chung xây và bảo vệ quốc gia từng một thời đáng tự hào và quý yêu.
Một hôm, qua cửa kính, bố tôi nhìn ra đại lộ Tver nhộn nhịp của thủ đô. “Này con trai, ai đứng thế kia? Họ làm gì thế?” – “Bố ơi, bọn con gái tơ đấy!”. Bên cạnh các cô là chiếc “U-oát” màu vàng của công an. Cô nào được các đại gia lựa chọn thì lên xe của họ để phóng đi. Còn chiếc công vụ “U-oát” đứng đó thì không phải để dẹp “cave” mà như để bảo vệ chúng. Vì sau đó họ còn được các đại gia “lại quả” như ý. Nhìn cảnh đó và nghe tôi giải thích sự việc, bố tôi ôm mặt khóc…
Đã từng một thời có “Quỹ Ma-rê-xi-ép” để trợ giúp thương binh, nhất là các cựu chiến binh Xô-viết. Nhưng nay thì không còn, mặc dù cái tên người anh hùng Ma-rê-xi-ép cần được bảo vệ để mọi người nhớ lại và tự hào như thời còn Liên bang Xô-viết.
Nguyễn Hữu Dy