QĐND - LTS: Năm 1965, NXB International Publishers New York xuất bản cuốn “Cuộc chiến tranh du kích: tường thuật từ bên trong” của ký giả lão thành Uyn -phrết Bớc -sét (Wilfred Burchett). Độc giả phương Tây rất ấn tượng về chương nói về các tù binh Mỹ thăm vùng giải phóng miền Nam cuối năm 1963.
Chân dung tù binh Mỹ
… Bốn tù binh Mỹ tôi gặp một trong những trại giam lính Mỹ đầu tiên được thiết lập ở Đông Nam á đều là thượng sĩ, và bị bắt tại “Trại huấn luyện lực lượng đặc biệt” Hiệp Hòa đêm 23-11-1963, khi du kích đánh chiếm trại này, phá hủy toàn bộ đồ quân dụng và thu số lượng vũ khí đủ để trang bị cho một tiểu đoàn tăng cường của Quân giải phóng…
 |
Bọn đánh thuê và người yêu nước (Patriots & Mercenaries).
|
K.Râu -ra-bách (Kenneth Roraback), một cựu binh chiến tranh Triều Tiên, đã phục vụ được 15 năm trong quân đội Mỹ, là người duy nhất còn thức vào lúc trận đánh nổ ra lúc nửa đêm, khi anh ta đang viết thư cho vợ. “Chuyện gì đã xảy ra?”, tôi hỏi. Râu -ra-bách cho hay, đó là một trận đánh đêm được lập kế hoạch chu đáo, tiến hành tốt, chỉ xảy ra trong 15 phút đồng hồ…
“Anh có kịp cầm vũ khí”, tôi hỏi Râu -ra-bách.
“Không còn thời gian”
“Có tổ chức đề kháng không”
Ba tù binh Mỹ còn lại là Cô -ma-chô, một người bang Tếch -dát da ngăm; Mác Clu -rơ, một chuyên gia phá hoại người Mỹ gốc Phi, và Xmít, một quân y sĩ và phụ trách điện đài, đều có nhận định giống như Râu -ra-bách. “Một cuộc tấn công đêm hoàn hảo”, Xmít nói: “Mở đầu là tập kích bằng súng cối… Mọi thứ bùng cháy chỉ trong vài phút, vì trong các boong -ke có thuốc nổ. Sau vài phút, Việt Cộng xuất hiện, họ trói tay tôi rồi đưa lên khỏi hầm”.
Cả bốn tù binh Mỹ này sau khi bị bắt đã trải qua một cuộc di chuyển nhiều tháng trời, chủ yếu là đi bộ, tuy có lúc trên xuồng ba lá, cứ đi dích dắc như vậy cho đến an toàn khu.
Tôi hỏi Râu -ra-bách, các cuộc không kích có cản trở các cuộc hành trình của họ không. “Máy bay Mỹ đã đánh phá không lâu sau cuộc tiến công vào trại huấn luyện Hiệp Hòa xảy ra… Nhờ trời, tôi đã vô sự. Khoảng hai hôm sau, máy bay B26 xuất hiện trên đầu và thực hiện 12 trận ném bom… Nhờ trời, tôi lại bình an vô sự”. Suy nghĩ của tôi chợt trở về với câu chuyện trước đó với ba chiến sĩ đã tiến công rạp Capitol (khách sạn Kinh Đô, cũng gọi là Capital), Sài Gòn: “muôn ngàn người Việt chúng tôi sẵn sàng hy sinh bất kỳ lúc nào, nhưng chúng tôi phải đổi mạng 5, 10 tên xâm lược Mỹ cho mỗi mạng người Việt chúng tôi”.
Chí nhân và cường bạo
Mỗi tù binh Mỹ cam đoan với tôi, rằng họ được đối xử tốt, và từng người trong họ đều nhấn mạnh sự ngạc nhiên về việc này. “Những người áp giải tôi đều cư xử chu đáo kể từ khi tôi bị bắt”, Râu-ra-bách kể. “Tôi đã lo mình sẽ bị bắn ngay, và tôi nghĩ rằng điều này đã thể hiện trên mặt tôi. Khi điều này không xảy ra trong những ngày đầu, tôi nghĩ họ đưa chúng tôi đi xa hơn, rồi sẽ xử bắn”.
“Tại sao anh lại nghĩ mình sẽ bị bắn?”, tôi hỏi. Râu -ra-bách lúng túng một chút, “Tôi nghĩ điều đó là bình thường”, anh ta nói, sau khi yên lặng, “Du kích không có điều kiện để đối xử với tù binh. Nhưng khi họ nhận thấy tôi sợ, họ đã làm mọi thứ để làm tôi nguôi nỗi sợ”.
“Làm sao các anh có thể giao thiệp được với du kích? ". “Không nói được. Nhưng họ vỗ nhẹ vào lưng tôi, xua tay một cách hữu nghị trước mắt tôi, đập khẽ vào tay tôi và luôn làm các cử chỉ để hiểu rằng: Đừng lo lắng”.
 |
Phổ biến chính sách đối với tù hàng binh của MTDTGP cho đại diện Mỹ đi nhận tù binh Mỹ được phóng thích tại bến Tà Xiêm, Tây Ninh (1-1-1969). Ảnh tư liệu
|
Người ta có thể đoán ra ngay vì sao Râu -ra-bách và các tù binh Mỹ kia lại lo lắng. Đó là vì họ biết bất kỳ du kích nào nếu bị quân đội Mỹ bắt, sẽ nhất định bị tra tấn ngay lập tức. Và lực lượng đặc biệt mà mấy người Mỹ này tham gia vào là một trong những đội quân tàn bạo, hung hãn nhất. Người ta chỉ cần nhìn vào những tấm ảnh in trên bìa, trên trang nhất của các báo chí Mỹ chụp “tù binh Việt Cộng”, là hiểu ngay vì sao Râu -ra-bách và đồng bọn lại lo lắng. Trên bìa tờ Thời báo Niu Y -oóc ra ngày 24-5-1964 chẳng hạn, có ảnh một người Việt mình trần, nằm trên mặt đất, tay bị buộc lên trên đầu bởi một sợi cáp, nối với một chiếc xe tăng Mỹ. ảnh được chú thích vắn tắt là “Việt Cộng” này được kéo bởi chiếc tăng, kể cả qua sông, để buộc người tù binh này “mở miệng”.
Mác Clu -rơ bị thương trong đợt tiến công bởi mảnh đạn cối. “Tôi được sơ cứu ngày hôm sau và các mảnh cối được lấy ra bốn ngày sau đó”, anh ta kể. “Họ đối xử tốt với chúng tôi. Không có điều gì thô bạo. Tôi không bao giờ nghĩ sẽ được đối xử như thế. Điều này thực sự gây sửng sốt”.
“Họ cư xử thật tử tế”, Xmít nói, “nhất là các du kích làm sao có điều kiện trông coi tù binh Mỹ. Họ đã cố làm tốt nhất trong điều kiện hiện có”.
Ca-ma-chô nhận định: ‘Họ đối xử tốt. Nhưng thật khó cho họ khi phải cung cấp cho chúng tôi những thức ăn của Mỹ”. Tôi thật ngạc nhiên nhận thấy những người lính Mỹ này còn tin chắc rằng, người phương Tây không thể sống bằng cơm gạo thay cho bánh mỳ như lương thực chính. Thực phẩm là vấn đề lớn trong trông coi bốn tù binh này.
Chính sách của Mặt trận Dân tộc Giải phóng là giữ các quân nhân Mỹ bị bắt một vài tháng để giải thích cho họ về cuộc đấu tranh của Việt Nam, sau đó thả họ. Tôi nhận thấy, trại giam nhỏ này có vẻ đang sắp xếp để lo liệu cuộc sống cho nhiều tù binh Mỹ hơn, và việc đàm phán (với phía Mỹ) để thả họ trong tương lai chắc sẽ trở thành vấn đề. Quân phục của tù binh được thu giữ, và họ được may đo hai bộ bà ba. Họ được cấp xà phòng và thuốc đánh răng… Họ ở trong các căn nhà lá, có hầm tránh máy bay, và hàng rào tre vây quanh. Các tù binh Mỹ ngủ trên giường tre truyền thống của Việt Nam. Những người phụ trách trại cho hay, “dù có mong muốn đến mức nào, cũng không thể làm được xưởng bánh mỳ trong rừng”, và họ cố gắng thay đổi thực đơn để đáp ứng cái dạ dày Mỹ.
Họ ngạc nhiên khi nhìn thấy tôi lần đầu bước ra từ trong rừng, cứ như là tôi vừa từ sao Hỏa xuống. Vì họ đã sống tách ra khỏi thế giới bên ngoài vài tháng, tôi hỏi họ có câu hỏi gì không, và ngạc nhiên thấy sự quan tâm của họ quả là hạn chế.
Ca-ma-chô hỏi tôi: “ông có tình cờ biết được ai vừa giành chức vô địch quyền Anh hạng nặng thế giới không?”. May mà tôi có nghe đài nên trả lời được câu này. Một nụ cười thật mãn nguyện hiện trên khuôn mặt anh ta…
Tôi hỏi Râu -ra-bách nghĩ gì về cuộc chiến tranh, một khi anh ta đã có vài tháng để suy tư về nó. Sau khi giải thích rằng, là một quân nhân, anh ta không có quyền để thảo luận các vấn đề chính trị, Râu-ra-bách nói: “Đây thật là một bí ẩn. Tôi không hiểu chuyện gì đang xảy ra. Ai phải, ai trái, ai thắng, ai thua, tức là nhìn toàn cục, tôi chẳng có khái niệm gì”. Các tù binh khác cũng trả lời tương tự. Họ “không có khái niệm” về cuộc chiến tranh này, hoặc vì sao họ lại ở đây. Họ chỉ quan tâm thuần túy đến vai trò “cố vấn” của mình.
Khi tôi hỏi Râu -ra-bách, anh ta duy trì khả năng tư duy thế nào, vì các tù binh không có gì để làm, ngoài giữ cho nơi ăn chốn ở - một căn nhà lá - cho sạch sẽ. Râu -ra-bách trả lời: “Tôi nghĩ về tất cả những gì mình làm khi về nhà. Tôi tưởng tượng là sẽ làm một cái bếp nướng thịt barbecue; sẽ làm những cái giá trong nhà bếp; làm 6 cái mô hình máy bay cho bọn trẻ và ba chiếc đài. Đấy là cách duy nhất tôi duy trì khả năng tư duy”.
Câu hỏi đặt ra là tại sao có những kẻ chẳng hề quan tâm đến lý tưởng tranh đấu, chẳng cần nhận thức vì sao xảy ra cuộc chiến, những người sẵn lòng lao vào những phận sự dữ dằn, khó chịu? Xin hãy nhìn vào đồng lương của họ. Lương cơ bản của Râu -ra-bách là 353USD hằng tháng (năm 1963, khoảng 2000USD hôm nay - ND), khi sang Nam Việt Nam công tác sẽ đạt tới 858USD thu nhập hằng tháng.
Ba “cố vấn” Mỹ còn lại nhận thêm từ 450 đến 500USD tiền phụ cấp (khi sang Việt Nam), điều làm cho họ trở thành những lính đánh thuê có mức thu nhập cao nhất từ trước đến nay, xét theo quân hàm của những quân nhân Mỹ này. Các đối thủ của họ - cán binh của Mặt trận Giải phóng, từ chiến sĩ đến chỉ huy đơn vị, nhận phụ cấp 40 đồng một tháng, bằng 1USD theo tỷ giá chính thức, và chỉ khoảng 40 xen theo giá chợ đen, cũng là thực giá theo thị trường. Nhưng sự khác biệt giữa những người yêu nước và lính đánh thuê trên gợi nhớ câu chuyện con chó săn giải thích cho chủ, vì sao nó không bắt được con mồi nhỏ, sau một cuộc rượt đuổi khủng khiếp: “Con mồi chạy vì cuộc sống của nó, còn tôi (chó săn) chạy chỉ vì bữa trưa thôi”. Người Việt chiến đấu vì sự tồn vong giống nòi, còn lính đánh thuê Mỹ thì vì bữa ăn, đây cũng là lời giải cho sự khác biệt về thắng lợi và thất bại trong loại hình xung đột đang xảy ra ở miền Nam Việt Nam…
W.BớC -SéT
Lê Đỗ Huy (lược dịch)