QĐND - Hồi đầu thế kỷ 19, khi viết bộ sách bách khoa “Lịch triều hiến chương loại chí” nổi tiếng, nhà bác học Phan Huy Chú đã đặt nhân vật lịch sử Lê Niệm vào cuối phần nói về “Tướng có tiếng và tài giỏi” của thiên “Nhân vật chí”, nhưng như thế là để viết “Lời án” chí lý như sau: “Xét khoảng niên hiệu Quang Thuận, Hồng Đức (vua Lê Thánh Tông, 1460-1497), các bậc tướng thần đều là con nhà dòng dõi coi việc quân. Tuy không phải chỉ có một hai người, nhưng kể đến người văn võ đều giỏi, công danh toàn vẹn, thì không ai bằng Lê Niệm”.
 |
Minh họa: Quang Cường |
Lê Niệm là con, đồng thời là cháu của hai đời liệt sĩ lớn, thời Lam Sơn khởi nghĩa (1418-1428). Cha của Lê Niệm là Lê Lâm, tử trận năm 1430, khi làm tướng tiên phong của Thái Tổ Lê Lợi, đi chinh chiến ở mặt trận phía Tây. Trong lần tiến binh đến động Hồng Di, tiên phong Lê Lâm bị trúng tên thuốc độc, chết. Lê Thái Tổ vô cùng thương tiếc, truy tặng chức Thiếu úy. Sau còn được truy phong tiếp đến chức Thái úy, tước Trung quốc công. Ông của Lê Niệm, chính là “Đệ nhất công thần” Lê Lai, người đã “liều mình cứu chúa” năm 1418, khi giả làm Bình Định vương cho giặc bắt, giết ở trận Lê Lợi bị vây khốn tại núi Chí Linh. Vô cùng cảm kích khi được thoát thân nhờ Lê Lai “liều mình cứu chúa” như thế, Bình Định vương Lê Lợi đã khấn nguyện với trời đất là: “Lê Lai vì đại nghĩa mà xả thân, tôi thề ngày sau chẳng quên ơn ấy”.
Lê Niệm, lúc cha đẻ hy sinh, mới ở tuổi thơ ấu. Còn lúc ông nội bỏ mình vì nước thì chỉ vừa sơ sinh. Bởi vậy, trong tờ “sắc dụ” tuyên dương công trạng Lê Niệm vào đầu những năm 60 của thế kỷ 15, vua Lê Thánh Tông mới nói (viết) rằng: “Khi trước, đức Thái Tổ (Lê Lợi) ta, dựng nên nghiệp lớn, cha người là Lê Lâm rong ruổi đông tây, vì nước mà chết. Đến khi Thái Tông (1434-1442) nối chí trước, noi nghiệp cũ, nhớ đến công của cha ngươi, thì bấy giờ, ngươi còn trẻ tuổi, chưa (cho) ra làm quan được…”.
Nhưng tới cuối đời vua Thái Tông, và nhất là sang đến đời vua Nhân Tông (1442-1459) thì Lê Niệm đã đến tuổi trưởng thành. Và đã có một thời ẩn nhẫn-giữa sóng gió của chính trường thời Thái Tông, trong đó, nhiều đại công thần thời Thái Tổ (như các tể tướng Lê Sát, Lê Ngân…) đều phải trả giá cho sự tham quyền cố vị của mình, bằng cả cái chết tức tưởi. Ông lặng lẽ ôn văn luyện võ, trau dồi tri thức, đúc rút kinh nghiệm…, chờ ngày được xuất chinh. Vì thế, vào niên hiệu Thiệu Bình năm thứ 8 (1438) của vua Lê Thái Tông, khi bắt đầu được vời ra làm quan, ở và từ tuổi 22, thì Lê Niệm đã sẵn sàng về mọi mặt. Vì xuất thân là chân “tập ấm”-thừa hưởng ân huệ từ cha ông-nên chức “Chính chưởng cục Cận thị” (đứng đầu cơ quan trông coi việc phục vụ nhà vua)-phải là người thân tín mới được giao-đã chính thức mở đầu thuận lợi cho cuộc khởi nghiệp làm quan của Lê Niệm.
Cho nên, sau cái chết đầy bí ẩn của vua Thái Tông ở “Vụ án Lệ Chi Viên” năm 1442, vua Nhân Tông lên ngôi, kế vị, từ niên hiệu Thái Hòa năm thứ 4 (1446) của vị vua này, Lê Niệm-ở tuổi 30-đã liên tiếp được thăng quan tiến chức: Từ chỗ là “Thiêm tri” (kiêm quản) viện Nội mật (là cơ quan tham mưu tối cao công việc triều chính), sau khi đi theo tướng Lê Nhân Thụ đánh trận ở phương Nam với chức “Ký lục” (Thư ký), trở về, thì đã thành chân “Đồng tri” (cùng phụ trách) cơ quan triều chính quan trọng này. Tiếp đến năm 1449 thì Lê Niệm đã được tín nhiệm-từ triều đình trung ương-cử đi làm quan trấn trị các vùng miền quan trọng của đất nước, trước hết làm “An phủ phó sứ Tây đạo” (miền đất từ phía tây kinh thành đổ lên đến tận tây bắc cương vực quốc gia), sau đó lật cánh sang miền đông bắc, làm chức Tuyên úy đại sứ trấn An Bang (đứng đầu miền trọng trấn biên thùy ven biển tương đương tỉnh Quảng Ninh ngày nay). Vào lúc này, có một văn bản do chính tay Lê Niệm soạn, để lại đến ngày nay, là: Tờ “biểu” tạ ơn vua, cho thấy rõ không chỉ tài làm quan, mà còn cả tài văn chương của Lê Niệm là như thế nào.
Ở tuổi 44 Lê Niệm đã được triệu về triều, làm đến chức tước “Tư mã Tham dự triều chính Đình thượng hầu”. Chính ở cương vị quan trọng này, vào ngày 6-6 năm Canh Thìn-1460, sau khi xảy ra vụ đảo chính động trời do Lê Nghi Dân-hoàng tử trưởng của vua Thái Tông, đang đêm cùng bọn thủ hạ trèo tường vào Cấm cung, một lúc giết hại cả hai mẹ con người em ruột của mình là hoàng đế Lê Nhân Tông để tiếm ngôi, tranh quyền-Lê Niệm đã cùng các lão tướng, lão thần kiên trung là: Nguyễn Xí, Đinh Liệt, Lê Lăng, Lê Nhân Thụ… bí mật tổ chức một cuộc “phản đảo chính” thành công: Hạ bệ Lê Nghi Dân, giết sạch gian đảng và đặc biệt là đưa Lê Tư Thành - hoàng tử út của vua Lê Thái Tông - lên ngôi, khôi phục chính thống.
Có mặt và góp công lớn, từ sự kiện trọng đại mùa hè năm 1460, Lê Niệm đã trở thành công thần hàng đầu triều đại 38 năm “minh quân hiền lương” (vua sáng tôi hiền) của vua Lê Thánh Tông - chính là triều đại của hoàng tử Lê Tư Thành, ngồi ngai với hai niên hiệu: Quang Thuận (1460-1470) và Hồng Đức (1470-1497). Ngay vào năm đầu của niên hiệu Quang Thuận-1460, hoàng đế Lê Thánh Tông đã cho soạn bài “Chế văn” ban cho Lê Niệm, với những lời vô cùng trọng thị một con cháu gia đình liệt sĩ biết kế thừa và phát huy truyền thống cha ông: “Ngươi là người có khí độ trầm hùng, kiến thức sáng suốt. Là cây cao của cố gia, mấy đời quan to; là hoa thơm trong nghệ uyển, trông thật rực rỡ tiếng tốt. Văn võ việc gì ngươi cũng làm được; cất đặt chức gì ngươi cũng làm xong. Nơi biên trấn quan trọng, cốt để ngươi gìn giữ một phương. Huống chi là một nhà trung nghĩa, thương ông cha ngươi vì nước bỏ mình… Mới đây vận nước gặp suy, ngôi vua bị nạn (Lê Nghi Dân đảo chính). Cương thường đổ nát, guồng tạo hóa cơ hồ dừng lại; danh vị nhũng lạm, bọn gian tà khi ấy hoành hành. Tráng sĩ mấy phen khí xông lên mũ; trung thần bao độ giận đến nghiến răng. Gối giáo lo việc, kẻ thù chẳng đội trời chung; giơ tay quát lớn, bọn giặc hại vua phải diệt. Để cho ngôi vua lại được chính vị, làm cho đất nước lại được thanh bình. Công phục hồi đã lớn, lễ báo đáp phải ban. Vậy phong (cho ngươi) làm Á tướng, ban (cho ngươi) tước Đại hầu. Lại cho kiêm trọng quyền cai quản kinh đô, coi như cùng họ với hoàng gia. Để tỏ rõ biệt đãi; để tôn quý ơn riêng. Có vua hay, có tôi giỏi, đâu chẳng phải trời cho; làm tướng văn, làm tướng võ, ngươi phải nên cố gắng”.
Đúng theo những lời ban thưởng, khích lệ, dặn dò của vua Lê Thánh Tông như thế, trong vòng 26 năm (1460-1485) phục vụ triều đại “vua sáng tôi hiền”, Lê Niệm đã đinh ninh tấm gương hy sinh vì nước của cha ông, làm được nhiều việc rất lớn.
Là tướng văn, ông vừa kiêm quản bộ máy hành chính ở kinh đô, với chức “Kinh doãn”; đứng đầu việc giáo dục và thi cử ở Quốc Tử Giám, với chức “Tế tửu”; phụ trách việc giữ đất lấn biển ở Sơn Nam, bằng việc chỉ huy đắp con “đê Hồng Đức”, đến nay vẫn còn. Đặc biệt, ở khoa thi Tiến sĩ đầu tiên của triều đại Lê Thánh Tông năm 1463, ông được giao việc tổng phụ trách, với chức “Đề điệu”.
Là tướng võ, ông được giao chỉ huy các “vệ” (đơn vị quân đội) thuộc Đông đạo (đóng từ mạn đông Kinh đô ra tới biển). Năm 1470 sung chức “Chinh lỗ phó tướng quân”, cùng vua Lê Thánh Tông đi trận phương Nam, đánh chiếm được kinh đô Chiêm Thành. Năm 1479, giữ chức “Binh nhung tướng quân”, dẫn đại binh đi chinh phạt “Bồn man” ở mạn Tây, đuổi giặc đến tận sông “Kim Sa”, giáp giới nước Miến Điện…
Với những thành tích lẫy lừng như thế, Lê Niệm đã lần lượt được trải qua tất cả các chức tước văn võ, đều “nhất phẩm triều đình”: Nhập nội Đô đốc, Bình chương quân quốc trọng sự, Thái phó, Kỳ quận công, rồi Tĩnh quốc công. Đến khi mất vào tháng Ba năm Ất Tỵ-1485, ở tuổi thọ 70, lại được truy tặng chức Thái úy, được ban tên “thụy” (tên đẹp, mỹ tự) là Trinh Ý.
Nhà bác học Phan Huy Chú ở thế kỷ 19, với văn phong luôn kiệm lời, vậy mà vẫn có cả một “lời bình” dài về cuộc đời và sự nghiệp của người con liệt sĩ Lê Lâm, cháu liệt sĩ Lê Lai-Thái úy Quốc công Lê Niệm-như sau: “Ông là bậc quan to nối đời, có đức vọng lâu dài, làm tể tướng cầm đầu việc nghị bàn của nước, gần 30 năm, mấy lần đem quân đi đánh giặc đều thắng, uy đức danh vọng làm cho triều đình tôn trọng, công danh phúc lộc vẹn toàn, người đương thời đều khen ngợi. Lại có học vấn, hay thơ. Mỗi lần Lê Thánh Tông làm thơ đề vịnh, thường bắt ông họa lại. Nhà ở của ông có biển đề chữ “Thuyền Hiên”, ý giả là cảm mộ cái chí của Đào Chu (tức: Phạm Lãi, thời Xuân thu Chiến quốc, giúp Việt vương Câu Tiễn lấy lại được nước, nhưng không nhận quan tước mà trốn đi rong chơi Ngũ Hồ). Ông dẫu thân ở chốn triều đình mà phong thái thanh đạm, vượt ra ngoài trần tục, được thế nhân nể phục là người cao thượng”.
GS LÊ VĂN LAN