Người phương Bắc từ ngàn xưa có thuyết rằng: Cứ 500 năm lại xuất hiện một thánh nhân, tức một nhân vật vĩ đại! Phải chăng, Nguyễn Trãi là thánh nhân, bởi ông xuất hiện sau 500 năm của nền văn hóa Thăng Long?

Nguyễn Trãi chào đời giữa lúc quê hương đất nước đang vào thời kỳ đầy biến động (1380). Triều Trần trượt dài trên đường mạt vận. Nhà Hồ thay thế, đang bắt đầu một cuộc chấn hưng kinh tế, chính trị, văn hóa để thoát khỏi khủng hoảng cuối đời Trần.

Năm 1400, vào tuổi 20, Nguyễn Trãi đỗ tiến sĩ trong khoa thi Hội bình minh của triều Hồ. Thế là hai cha con cùng tham chính. Người cha (Nguyễn Phi Khanh) giữ chức Hàn lâm viện Học sĩ, kiêm Tư nghiệp Quốc Tử Giám, còn người con là Ngự sử đài Chánh trưởng trong triều đình Hồ Quý Ly. Tuy là cháu ngoại quan đại thân vương quý tộc nhà Trần, nhưng ông nhiệt tâm hợp tác với chính quyền nhà Hồ trong niềm tin mới.

Biên cương mịt mù bóng giặc. Nhà Minh mang quân xâm lược, bành trướng xuống phương Nam. Triều Hồ nhanh chóng tiêu vong. Dân chúng lầm than, quê hương khói lửa. Gia đình Nguyễn Trãi tan nát. Cha bị bắt giải sang Trung Quốc, còn ông bị giam lỏng ở thành Đông Quan, mười năm cá chậu chim lồng...

Bị giam lỏng ở kinh thành, Nguyễn Trãi tìm cách thoát khỏi thành Đông Quan, về ẩn náu ở Côn Sơn, quê ngoại.

Côn Sơn! Hơn hai mươi năm trước còn trong tuổi ấu thơ, Nguyễn Trãi từng sống với ông ngoại Trần Nguyên Đán. Tuy chỉ vài năm, nhưng đã để lại trong ông bao ký ức... 

leftcenterrightdel
Đền thờ Nguyễn Trãi trong quần thể Khu di tích Côn Sơn - Kiếp Bạc, Chí Linh, Hải Dương. Ảnh: TĂNG BÁ HANH

Nơi đây bốn mùa thông reo vi vút, có hoa sim bừng nở dọc suối ngày hè, có tiếng chuông thanh thoát vọng trong chiều núi và đàn chim rừng ríu rít tìm bầy về tổ.

Một ngày kia, Nguyễn Trãi trèo non, lận rừng, băng thác vào đất Lam Sơn, Thanh Hóa tìm minh chủ…

Dồn nén uất ức trước non sông bị tàn phá, dân chúng điêu linh, và “nước mắt đắng chục năm tim nghẹn nỗi đau” cùng máu lệ đã hóa thành “Bình Ngô sách”-sách đánh dẹp giặc Minh với tư tưởng chiến lược “Tâm công”, đánh vào lòng người, bao hàm cả quân sự, ngoại giao-chính trị, địch vận.

Nguyễn Trãi dâng “Bình Ngô sách” cho Lê Lợi và ông trở thành người phò tá đắc lực của người anh hùng áo vải đất Lam Sơn.

Vào giai đoạn kết thúc chiến tranh, ông đảm đương đấu tranh chính trị, địch vận “sửa hòa hiếu cho hai nước, tắt muôn đời chiến tranh”.

Nước Đại Việt thanh bình, Nguyễn Trãi hăm hở phò vua giúp dân kiến quốc. Thế nhưng khi đất nước hết giặc ngoại xâm thì giặc nội xâm khuynh đảo triều chính, đến nỗi Lê Thái Tổ-một người từng dọc ngang trận mạc cũng không khống chế nổi. Một số công thần bị giết hại, Nguyễn Trãi bị bắt giam.

Danh hư thực họa nên cười quá

Bao kẻ gièm pha xót người trung.

Đây là lần thứ nhất Nguyễn Trãi bị oan…

Năm 1433, Lê Thái Tông 10 tuổi kế vị vua cha. Nguyễn Trãi cúc cung phò vua trẻ tuổi. Câu nói vắt ruột của ông còn vang trong sông núi: “Xin bệ hạ yêu thương và nuôi dưỡng dân chúng để nơi thôn cùng xóm vắng không có tiếng oán hận sầu than”.

Nhưng vua trẻ ham chơi, quyền thần lũng đoạn triều đình. Nạn tham nhũng, bè cánh và xu nịnh đã cản ngăn những ý tưởng phò vua giúp nước của ông. Nguyễn Trãi đấu tranh nhưng bất lực phải lui về dựng nhà cuối bãi sông Tô:

Một dòng nước lạnh nơi Tam quán

Bốn vách nhà nghèo đủ sách treo

Đêm ngày ngâm ngợi:                 

Hé cửa đêm chờ hương quế lọt

Quét hiên ngày lệ bóng hoa tan.

Nguyễn Trãi càng ưu quốc ái dân, càng nhân nghĩa, ông lại càng bị gian thần ganh ghét, đố kỵ. Cuối cùng bị cô lập hoàn toàn.

Nguyễn Trãi từ quan xin về ẩn dật ở Côn Sơn.

Côn Sơn, miền đất tuổi thơ của Nguyễn Trãi. Vẫn là khói đầu non, ráng ngoài đảo... thao thức thông ngàn... Vẫn gió núi, chuông chùa... thạch bàn, lối sỏi, rừng trúc miên man... Đó là một khung cảnh như đã hòa với bầu trời mênh mông mà vui chơi ra ngoài cõi vật...

Nhưng tất cả không thể lấp đầy khoảng trống… Bởi trong lòng ông vẫn đau đáu nỗi nước nhà.

Bui một tấc lòng ưu ái cũ

Đêm ngày cuồn cuộn nước

                                          triều đông

Vua Lê Thái Tông đã trưởng thành, thực sự nắm triều chính, năm 1439, nhà vua mời Nguyễn Trãi trở lại

kinh thành.

Đã vào tuổi lục tuần, Nguyễn Trãi lại hăm hở hồi triều, những mong đem chút sức lực còn lại để tài bồi cho quốc dân và chấn hưng đất nước với chan chứa niềm hy vọng:

Thương thần như ngựa đến tuổi già,

                           còn kham rong ruổi

Cho thần như thông qua năm rét,

                     càng dạn tuyết sương

Quần môn mặc kệ gièm pha

Thánh ý cứ bền tín nhiệm.

Nguyễn Trãi được giữ chức cũ, còn kiêm Hàn lâm viện Thừa chỉ, Đề cử chùa Tư Phúc và trông coi hai đạo Đông Bắc...

Chỉ ba năm sau, tức năm Nhâm Tuất (1442), vua Lê Thái Tông đi duyệt binh ở khu Đông Bắc, khi trở về đã ghé thăm Nguyễn Trãi ở Côn Sơn. Lúc hồi kinh có Nguyễn Thị Lộ đi theo hộ giá. Đêm ấy tại ly cung Lệ Chi Viên, nhà vua đột ngột từ trần.

Bọn quyền thần dựng lên vụ án kinh hoàng kết tội ông cùng vợ hãm hại vua.

Đó là ngày 16-8 năm Nhâm Tuất 1442, rừng thảm núi sầu. Nguyễn Trãi cùng Nguyễn Thị Lộ và nhiều người thân thuộc bị hành quyết tại pháp trường Thăng Long…

Thê thảm Lệ Chi, oan nghiệt

                                        lưỡi gươm

Ủ rũ cỏ cây, xót thương suối lệ

Thi hài Nguyễn Trãi an táng ở núi Tam Tiêm huyện Phượng Nhỡn, còn xỉ phát (tóc và răng) táng ở trang Thung Thượng, huyện Đông Triều, đến nay chỉ còn trong truyền khẩu.

Đấy là nỗi oan thứ hai của cuộc đời Nguyễn Trãi.

Nhưng phải đến 22 năm sau, khi vua Lê Thánh Tông lên ngôi mới xuống chiếu minh oan cho Nguyễn Trãi, với câu thơ động tới càn khôn, rung rinh vầng nhật nguyệt và cảm xúc tới muôn dân đất Việt:

Ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo (nghĩa là: Tấm lòng Ức Trai sáng như sao Khuê)

Giữa muôn vạn vì sao, ngôi sao Khuê bầu trời Đại Việt trong sáng đến vô cùng. Đó là ánh sáng tỏa ra từ khí tiết người anh hùng cứu nước vĩ đại, danh nhân văn hóa kiệt xuất, là sản phẩm của đất nước trong một thời đại trưởng thành và lớn mạnh, kết đọng tinh hoa của dân tộc. Dẫu kết cục cuộc đời bằng bi kịch thê thảm, nhưng tấm gương về phẩm giá một trí thức, quyết liệt với kẻ thù, bao dung nhân ái với lân bang, để lại cho dân tộc một kho tàng văn học giá trị... muôn thuở không phai mờ.

Cũng từ sau vụ án Lệ Chi Viên, hình ảnh Nguyễn Trãi chỉ còn trong trái tim người đời, không mấy còn hiện vật. Ngay ở Côn Sơn, nơi ông giữ chức Đề cử chùa Tư Phúc, những người tâm phúc nhất cũng chỉ dám đắp hai pho tượng bằng đất, yểm tâm đề tên bên trong để thờ. Mấy trăm năm sau, tượng đất vỡ ra từng mảnh, hậu thế mới biết đó là tượng Nguyễn Trãi và Trần phu nhân. Chưa hết, con người vĩ đại như Nguyễn Trãi nhưng cũng chỉ có một tấm ảnh mà đời sau tưởng tượng vẽ ra. Cũng vì không có nơi thờ tự nên bức ảnh ông phải để trong chùa Côn Sơn, ẩn chìm trong những pho tượng Phật.

Đã bao nhiêu năm, có biết bao thế hệ khách thập phương đến chiêm bái chùa Côn Sơn, hương nến bập bùng, hoa thơm, quả ngọt dâng lên tòa tam bảo. Chẳng mấy ai biết trong đó có một vị anh hùng cái thế đang nương náu cảnh thiền.

Đấy chính là nỗi oan thứ ba của ông…

Vẫn tưởng đến thế là cùng, nhưng lạ thay, nỗi oan cứ bám mãi, kể cả khi ông đã vào cõi vĩnh hằng. 

Năm 1980, nhân dịp kỷ niệm 600 năm Ngày sinh của ông, trên trang nhất của một tờ báo, người ta đăng ảnh tôn vinh để con cháu biết rằng tổ tiên từng có những con người vĩ đại. Nhưng đã in nhầm ảnh của một viên quan đại thần triều Nguyễn (?!)

Vậy là Nguyễn Trãi thêm một lần chịu oan!

 Lại phải 22 năm sau nỗi oan ức ấy, tức là tháng 8 năm Nhâm Ngọ 2002, ở nơi nổi tiếng địa linh nhân kiệt-xứ Đông xưa-tỉnh Hải Dương ngày nay, đã long trọng tổ chức Lễ khánh thành Đền thờ Nguyễn Trãi sau nhiều năm xây dựng.

Bây giờ ở Côn Sơn-một di tích lịch sử văn hóa đặc biệt của quốc gia-nơi di dưỡng tinh thần của bao nhiêu bậc hiền triết, của các tao nhân mặc khách và muôn vàn kẻ sĩ mọi triều đại-đã có một ngôi đền nguy nga tráng lệ, giữa một cảnh quan sơn thủy hữu tình... thờ riêng vị anh hùng dân tộc, nhà văn hóa thế giới Nguyễn Trãi.

Người phương Bắc từ ngàn xưa có thuyết rằng: Cứ 500 năm lại xuất hiện một thánh nhân, tức một nhân vật vĩ đại! Nguyễn Trãi chính là tầm cỡ kiểu thánh nhân, bởi ông xuất hiện sau 500 năm của nền văn hóa Thăng Long!

Chính ánh sáng từ trang sách cổ, từ tú khí chung linh, từ hồn Việt, hào khí của Rồng Tiên mấy nghìn năm cô đọng lại thành Nguyễn Trãi đại nghĩa, đại trí, đại dũng, đại nhân, với tấm lòng vằng vặc ánh sao Khuê!

Nguyễn Trãi càng oan khuất càng tỏa sáng. Không chỉ tỏa sáng trên bầu trời Đại Việt mà còn tỏa khắp hoàn cầu. Ông được UNESCO công nhận là một anh hùng dân tộc, một danh nhân văn hóa thế giới.

KHÚC HÀ LINH