QĐND - Cách mạng Tháng Mười Nga nổ ra ngày 7-11 (25-10 theo lịch Nga cũ) năm 1917. Cuộc cách mạng do V.I.Lê-nin và những người Bôn-sê-vích lãnh đạo đã đập tan ách áp bức bóc lột của chủ nghĩa tư bản và chế độ phong kiến tồn tại lâu đời ở nước Nga, mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử loài người, đưa công nhân, nông dân lên nắm chính quyền, xây dựng chế độ mới.
 |
Nhà báo Giôn Rít. Ảnh tư liệu. |
Chứng kiến sự kiện vĩ đại đó, nhà báo Mỹ mang tâm hồn cộng sản Giôn Rít (John Reed) đã viết cuốn sách nổi tiếng “Mười ngày rung chuyển thế giới”. Cuốn sách gồm 12 chương, xuất bản lần đầu tiên năm 1919 bởi NXB Boni & Liveright (Mỹ), diễn giải nguyên nhân dẫn đến cuộc cách mạng và quá trình diễn ra sự kiện lịch sử.
Sau khi đọc “Mười ngày rung chuyển thế giới”, Lê-nin viết: “Tôi mong muốn cuốn sách được phát hành hàng triệu bản và dịch ra nhiều thứ tiếng vì nó rất sinh động khi diễn tả về những sự kiện cực kỳ quan trọng, giúp mọi người hiểu thế nào là cách mạng vô sản, chuyên chính vô sản”.
Ngay sau khi xuất bản, tác phẩm này đã thu hút được sự chú ý đặc biệt của dư luận. Cho tới nhiều thập kỷ sau, cuốn sách vẫn được Thời báo Niu Y-oóc xếp vào “100 ấn phẩm báo chí xuất sắc nhất mọi thời đại”.
Trang sử biên niên
Ở nước Nga mùa thu năm 1917 ấy, những người nước ngoài không dám ra ngoài đường bởi những rung chấn cả địa cầu. Những người Nga tham gia cuộc cách mạng hoặc chìm vào các cuộc chiến mất-còn, hoặc mải tranh biện khốc liệt… hầu như không có thời gian ghi lại những hồi ức. Ai đó trong số họ có tài năng văn học, được xem như một thuộc tính Nga, hẳn đã ngập vào xúc cảm cách mạng đến mức khó diễn đạt nó thành văn chương. Kết quả là chức năng “thư ký thời đại” rơi vào tay một nhà báo cánh tả đến từ nước Mỹ.
Giôn Rít, phóng viên người Mỹ ở tuổi 30, đã xuất kỳ bất ý trở thành người chứng kiến Cách mạng Tháng Mười Nga. Sau khi viết xong cuốn sách này, Giôn Rít về nước, tham gia thành lập Đảng Cộng sản Mỹ. Sau đó, ông quay lại Nga nhân Đại hội lần thứ hai Quốc tế Cộng sản. Dự định viết một cuốn sách nữa về chính quyền nhà nước non trẻ này, nhưng Giôn Rít đột ngột từ trần năm 1920 vì bệnh sốt phát ban.
Nhà báo Giôn Rít viết trong lời nói đầu cuốn sách của mình: “Cuốn sách là một lát cắt của trang sử mãnh liệt mà tôi được chứng kiến. Cuốn sách không cố để trở thành một cái gì hơn là một tường thuật chi tiết về cuộc Cách mạng Tháng Mười, khi thợ thuyền và binh lính do những người Bôn-sê-vích lãnh đạo, đã giành chính quyền và trao nó vào tay các Xô-viết”.
Giống như một nhà báo về sau cũng “đi ngược” từ Tây sang Đông là Uyn-phrét Bớc-sét (Wilfred Burchett), Giôn Rít là một kiểu “phóng viên chiến trường” cả theo nghĩa rộng. Nhiều ngày gần như không ngủ, ông thường xuyên có mặt ở những nơi nóng bỏng nhất và chuyện trò với một số lượng lớn người Nga: Từ quan chức Chính phủ Lâm thời đến các lãnh tụ Bôn-sê-vích; từ quý tộc Nga đến những người đánh xe ngựa. Những người Nga muốn
thông qua người Mỹ này đưa đến cho thế giới sự thực về những gì đã xảy ra ở Nga.
Mặt khác, Giôn Rít còn là “phóng viên chính trường”. Ông đã ăn ngủ ngay trong Điện Smolny để tường thuật phát biểu của chính khách các phe phái khác nhau: Các bộ trưởng Chính phủ Lâm thời, các nhân vật bảo hoàng, Bôn-sê-vích, Men-sê-vích…
Giôn Rít viết trong Lời nói đầu: “Trong lăn lộn, tình cảm của tôi đã không hề trung lập. Nhưng kể lại câu chuyện về những ngày vĩ đại này, tôi đã cố nhìn các sự việc với con mắt của một người viết phóng sự tận tâm, chỉ tập trung vào để chuyển tải sự thật”.
Những ngày đầu sau Cách mạng
Giôn Rít viết tiếp trong Lời nói đầu: “Tôi nhận thấy những người Bôn-sê-vích không hề là một lực lượng phá hủy, mà là Đảng duy nhất ở Nga lúc đó có một chương trình hành động mang tính xây dựng, và có một sức mạnh để thực hiện chương trình này ở nước Nga. Những người Bôn-sê-vích đâu có phiêu lưu, khi họ lao vào lịch sử như đầu tàu của quần chúng lao động, và nhằm giành cho được những nguyện vọng lớn lao của họ”…
Giôn Rít cũng tường thuật lại một điển hình người Bôn-sê-vích luôn đứng lên tuyến đầu, gợi nhớ lời hiệu triệu của Ô-xtrốp-xki (nguyên mẫu của Pa-ven Coóc-sa-ghin): “Chỉ có tiến lên phía trước, chỉ có mặt trên tuyến đầu”. Đó là Dân ủy Trô-xki “rực lửa”, một nhà hùng biện, một vị tư lệnh sâu sát với đội quân cách mạng. Chương VIII “Phản cách mạng”, có đoạn: “Tại Xô-viết Pê-trô-grát (nay là Xanh Pê-téc-bua) các hàng ghế không còn chỗ trống, tua tủa những bóng người đeo súng. Trô-xki báo cáo: “Quân Cô-dắc đã bị đẩy khỏi khu vực Krát-nôi-ê Xê-lô. Nhưng trận đánh chỉ mới bắt đầu. Tại Pun-cô-vô đang đánh nhau dữ dội. Tất cả những lực lượng phải được nhanh chóng gửi đến đó”.
Tin từ Mát-xcơ-va là tin xấu. Điện Krem-li đang nằm trong tay quân phản cách mạng, còn những người công nhân chỉ được trang bị ít vũ khí. Thành quả cách mạng phụ thuộc vào Pê-trô-grát. Trên mặt trận, Sắc lệnh Hòa bình và Sắc lệnh Ruộng đất đang tạo nên một sự hăng hái mạnh mẽ.
Là một nhà báo chuyên nghiệp, Giôn Rít không che giấu thiện cảm và ác cảm của mình, duy trì một cách sát sao nguyên tắc của La Mã cổ đại: Phải biết nghe cả hai phía. Bản thân ông cũng vô cùng mạo hiểm. Trong một cuộc đi lên mặt trận phía Bắc, Giôn Rít với giấy ủy nhiệm đặc biệt của Ủy ban Quân sự cách mạng đã suýt phải trả giá đắt. Những dân binh cách mạng đầu tiên ở Nga không biết chữ đã định xử tử ông theo quy cách tòa án binh, may mà Giôn Rít đã thuyết phục được những người này tìm một người biết chữ để đọc lại nội dung giấy ủy nhiệm. Cuối cùng ông mới được thả.
Chương 10 cuốn sách nói về Cách mạng Tháng Mười xảy ra ở Mát-xcơ-va, khi phe phản cách mạng muốn biến thành phố này thành tâm điểm chống chính quyền Xô-viết cho toàn nước Nga nhưng bất thành. Cũng tại Chương 10, Giôn Rít đã kể về lễ an táng các liệt sĩ trong trận chiến giành Mát-xcơ-va: "Từ trên đỉnh bức tường Điện Krem-li, những lá cờ lớn rủ xuống đất, trên nền đỏ là những chữ màu vàng và trắng: “Những liệt sĩ thời đầu của cách mạng Xã hội Chủ nghĩa thế giới’; “Tình anh em của giai cấp cần lao thế giới muôn năm”… Xen giữa các dòng người là đại đội lính khiêng những quan tài và các khẩu đại bác quấn cờ đỏ và đen.
Tác giả kết thúc chương bi hùng này bằng một đoạn mà có lẽ những người Việt Nam từng đến đất nước Liên Xô trước năm 1990 chắc có thể cùng chia sẻ: “Tôi chợt nhận thức được rằng những người Nga vốn sùng đạo nay đã không còn cần tới các cha cố cầu kinh cho các hương hồn được lên thiên đường. Họ xây dựng trên Trái Đất một vương quốc chói sáng hơn bất cứ nước nào mà thiên đường có thể đem lại. Quả là vinh dự được chết cho đất nước đó...”.
Như ta đã biết, nơi chân tường Điện Krem-li là Nghĩa trang đầu tiên ở Mát-xcơ-va dành cho các liệt sĩ cách mạng, đã trở thành nơi an táng các nhà lãnh đạo trong suốt chiều dài lịch sử Liên bang Xô-viết. Tác giả “Mười ngày rung chuyển thế giới” cũng được chôn cất tại đây.
"Người mơ mộng” trong Điện Krem-li
Tại vùng Txác-côi-ê Xê-lô (Tsarskoe Selo), Giôn Rít gặp một người vệ binh đỏ bị thương vào ngực khi bắn nhau với quân Cô-dắc của tướng phản cách mạng Kra-xnốp. Trong trạng thái hôn mê, người lính này nhắc đi nhắc lại: “Sẽ có hòa bình… Sẽ hòa bình”. Hòa bình và ruộng đất quả đã về tay nhân dân lao động, cho dù phải qua đấu tranh quyết liệt, đúng như lời của Lê-nin được Giôn Rít chép lại.
Trong tiếng Nga có từ “mir” vừa có nghĩa là thế giới, vừa có nghĩa là hòa bình. Vẫn trong Lời nói đầu cuốn sách, Giôn Rít đưa ra đánh giá sau: “Không thể phủ định rằng Cách mạng Tháng Mười Nga là một trong những sự kiện vĩ đại nhất của lịch sử, và sự trỗi dậy của người Bôn-sê-vích là một sự kiện phi thường với tầm vóc toàn cầu…”.
Tác giả không giấu sự khâm phục lớn lao đối với Lê-nin. Hôm nay, đọc lại “Mười ngày rung chuyển thế giới”, học giả Nga càng cho rằng Nghị quyết về Khởi nghĩa vũ trang do Lê-nin thảo “đã thay đổi số phận nước Nga”. Ở chương cuối “Đại hội nông dân”, ông tường thuật lại những lời của Lê-nin, khiến độc giả hôm nay hẳn vẫn phải suy ngẫm:
"Chủ nghĩa xã hội chỉ có thể thực hiện được khi sự phát triển trí tuệ của toàn dân cho phép nó khả thi...”.
LÊ ĐỖ HUY