Hiệp định Geneva được ký kết là một thắng lợi lớn của chúng ta. Tuy nhiên, việc buộc thực dân Pháp-kẻ thù vừa bại trận nhưng vẫn còn lực lượng quân sự đóng rải rác trên toàn lãnh thổ Việt Nam và vẫn có âm mưu kéo dài sự thống trị của chúng ở ba nước Đông Dương trong khi tình hình thế giới và trong nước cũng vô cùng phức tạp, thực hiện hiệp định một cách nghiêm túc, có lợi cho ta là nhiệm vụ rất khó khăn. Nhận định đây thực sự là một cuộc đấu tranh chính trị-quân sự-ngoại giao vô cùng cam go, Thường vụ Trung ương Đảng, Bác Hồ và Tổng Quân ủy đã quyết định cử đồng chí Hoàng Anh đang là Bí thư Khu ủy kiêm Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Liên khu 4, Ủy viên Trung ương Đảng ra Hà Nội tham gia Tổng Quân ủy, nhận nhiệm vụ Chủ tịch UBTƯ.

leftcenterrightdel
Quang cảnh Hội nghị Geneva bàn về lập lại hòa bình ở Đông Dương diễn ra tại Thụy Sĩ năm 1954. Ảnh tư liệu.

Lúc bấy giờ, về quân sự, UBTƯ cử một đoàn đại biểu do Tổng Tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng làm trưởng đoàn, tham gia Hội nghị quân sự Trung Giã, để thường xuyên tiếp xúc với đại biểu quân sự của Pháp, nắm cụ thể tình hình của địch và việc thực thi các điều khoản quân sự. Ở Nam Bộ, do có nhiều diễn biến phức tạp lại ở xa nên được thành lập Ủy ban Liên hiệp đình chiến khu do đồng chí Phạm Hùng làm chủ tịch có nhiệm vụ nắm chắc tình hình Nam Bộ, nhận chỉ đạo và trực tiếp giải quyết các vấn đề cụ thể của địa phương một cách kịp thời.

Biên chế của văn phòng UBTƯ lúc bấy giờ có khoảng 40 đồng chí cán bộ, gồm một số cục trưởng và chuyên viên từ các cơ quan Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng Tham mưu, Tổng cục Chính trị và Bộ Công an biệt phái sang với nhiệm vụ theo dõi, tổng hợp tình hình báo cáo đồng chí Võ Nguyên Giáp-Bí thư Tổng Quân ủy và đồng chí Hoàng Anh. Sau khi kiện toàn bộ máy, chúng tôi khẩn trương bắt tay vào việc tổ chức thực hiện vì thời hạn thi hành hiệp định tính từ tháng 7-1954 đến tháng 6-1955, quá ngắn so với khối lượng công việc lớn và mới mẻ.

Công việc UBTƯ triển khai khi đó thật bộn bề và gặp nhiều vấn đề phức tạp không thể nói hết. Những điều khoản chính đều có những ràng buộc hết sức ngặt nghèo mà chỉ khi thực hiện, chúng ta mới thấy rõ. Trong thâm tâm, Pháp và Mỹ vì thất bại quá lớn trên chiến trường nên buộc phải ngồi vào bàn đàm phán, nhưng chúng chưa hề có ý định rút khỏi Việt Nam. Mặt khác, chúng còn có được sự ủng hộ ngầm của một số ủy viên trong Ủy hội Quốc tế kiểm soát đình chiến (UHQT). Tôi xin nêu một số tình huống cụ thể đã diễn ra từ miền Bắc tới Khu 5 và Nam Bộ trong việc tổ chức chuyển quân, tập kết và trao đổi tù binh để bạn đọc có thể thấy tình hình phức tạp mà UBTƯ phải khắc phục nhằm giải quyết tốt các vấn đề xảy ra trong quá trình thi hành Hiệp định Geneva.

Theo điều khoản về việc tập kết lực lượng quân sự hai bên thì địch có nhiều thuận lợi hơn ta vì các đơn vị thuộc quân đội Liên hiệp Pháp đều là những đơn vị chính quy, thường xuyên có sổ sách theo dõi chính xác từ trước, nên khi tổ chức chuyển quân và tập kết đối với chúng không có gì trở ngại. Hơn nữa, về phương tiện thông tin, vận chuyển chúng cũng rất đầy đủ cho nên để thi hành điều khoản này, chúng có nhiều thuận lợi.

Về phía ta, với ba thứ quân đóng quân và chiến đấu xen kẽ (ta vẫn quen gọi là thế cài răng lược) trong các vùng địch tạm chiếm, nhiều nơi ở vùng sâu và xa; phương tiện vận chuyển, trang bị thông tin liên lạc lại thiếu thốn nên từ việc lên danh sách đến việc chỉ đạo tập kết gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình thực hiện. Đặc biệt khu vực thuộc Nam Bộ, các đơn vị của ta rất khó hoàn thành được việc tập trung và vận chuyển đến các nơi tập kết đúng thời hạn. Trong khi đó, UHQT luôn đôn đốc phải hoàn thành kế hoạch đúng thời gian hai bên thống nhất trong hiệp định. Mặt khác, Pháp và bọn can thiệp Mỹ vẫn đang nuôi dưỡng âm mưu chống phá việc thực hiện hiệp định cho nên tại một số địa bàn quan trọng như Hải Phòng, Quảng Ninh, chúng rút quân rất chậm, viện lý do đó là những khu vực trung tâm kinh tế, thương mại của chúng nên phải làm từ từ để bảo đảm quyền lợi kinh tế của Pháp và những nước liên quan trong đó có Mỹ, Anh, Canada... Đồng thời chúng cũng ra sức củng cố những cơ sở vũ trang sẵn có để âm mưu gây ra những xung đột mới.

Trước tình huống phức tạp đó, Trung ương và đồng chí Hoàng Anh nhận định, đây là những khu vực then chốt về phòng thủ của địch, vì vậy ta đã phải chuẩn bị riêng một kế hoạch đấu tranh bao gồm cả phương án tác chiến (nếu cần thiết) để có thể hoàn toàn giải phóng khu vực này (lúc đó được gọi là “Kế hoạch khu 300 ngày”). Để đối phó, UBTƯ được sự chỉ đạo trực tiếp của Trung ương Đảng, Bác Hồ và Tổng Quân ủy đã kiên trì, khôn khéo tiến hành công việc, tránh được những thủ đoạn khiêu khích của địch, đồng thời buộc UHQT phải phối hợp để thúc đẩy việc thi hành điều khoản này. Cuối cùng địch cũng phải rút hết lực lượng của chúng khỏi những khu vực 300 ngày.

Trong việc trao trả tù binh giữa hai bên, quân Pháp vẫn còn âm mưu bí mật không trao trả cho ta một số cán bộ, đảng viên đã bị chúng bắt trong những cuộc càn quét, khủng bố trước đây. Khi đó ta còn đang phải khẩn trương điều tra, sưu tầm để hoàn chỉnh hồ sơ, danh sách trước khi thông báo cho địch. Thời gian trao trả tù binh của hai bên theo quy định ngày một tới gần. Tôi còn nhớ những ngày đó ở văn phòng UBTƯ, dưới sự chỉ đạo của đồng chí Hoàng Anh, các cán bộ quân sự, chính trị, dân vận làm việc ngày đêm, khắc phục nhiều khó khăn, tìm mọi biện pháp thu thập thêm thông tin, nhất là ở các khu vực xa như Liên khu 5, miền Tây Nam Bộ để có thể nắm chắc tình hình. Nhờ vậy vào những giờ phút cuối cùng, ta đã kịp thời phát hiện địch vẫn còn giam giữ một số cán bộ, đảng viên của ta ở nhà tù Côn Đảo.

leftcenterrightdel
Nhà làm việc của Tổ quốc tế 76 thuộc Ủy hội Quốc tế kiểm soát đình chiến. Ảnh chụp lại tại nhà trưng bày Khu di tích cầu Hiền Lương và sông Bến Hải.

Chúng ta đã đấu tranh quyết liệt, một mặt kiên quyết yêu cầu UHQT phải trực tiếp tham gia ép địch thi hành nghiêm chỉnh điều khoản đã ký. Mặt khác, do chưa thể buộc địch giao hết người của ta bị chúng giam giữ nên ta cũng có phương án đối phó: Chỉ giao trả từng đợt tù binh Pháp. Những tù binh cao cấp của chúng mà ta đã bắt được trong các chiến dịch lớn, từ Chiến dịch Biên Giới đến Chiến dịch Điện Biên Phủ, đặc biệt tù binh cấp tướng là De Castries-chỉ huy trưởng tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ-được trao trả sau cùng, ngày 3-9-1954. Do cách đấu tranh vừa kiên quyết vừa khôn khéo của ta, địch đã phải trả thêm 70 đồng chí đang bị giam giữ ở nhà tù Côn Đảo.

UBTƯ dưới sự chủ tọa của đồng chí Hoàng Anh, cứ 5 ngày một lần (có khi ngắn hơn) họp để nghe báo cáo của Ủy ban Liên hiệp đình chiến các cấp. Thỉnh thoảng Đại tướng, Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp cũng tham dự những buổi họp quan trọng. Trong các buổi họp, có những vấn đề phải thảo luận tốn rất nhiều thời gian, có việc thuộc về chủ trương, cũng có những việc chỉ là phương pháp tiến hành cần phải tinh tế, khôn khéo để địch không dám giở thêm những thủ đoạn xảo trá để chống phá ta.

Từng là Bí thư Liên khu ủy 4-một chiến trường vô cùng ác liệt trong kháng chiến chống Pháp, đồng chí Hoàng Anh là một cán bộ lãnh đạo có nhiều trải nghiệm về đấu tranh quân sự và chính trị ở nơi “đầu sóng ngọn gió”. Với nhiệm vụ được Trung ương và Bác giao phó, chỉ đạo một cuộc đấu tranh chính trị-quân sự-ngoại giao hết sức quan trọng và là đầu tiên của quân, dân ta trong trạng thái mới chuyển sang hòa bình, khối lượng công việc quá lớn, quá mới mẻ và vô cùng phức tạp là một thử thách rất lớn. Tôi còn nhớ, có lần khi một đồng chí báo cáo được UHQT khen ngợi, đồng chí Hoàng Anh rất tỉnh táo dặn dò: “Ủy hội khen thì ta cũng cảm ơn. Nhưng cần lưu ý, điều nào mà ông DeSai (Chủ tịch UHQT-NV) khen thì phải suy nghĩ kỹ xem ta có gì hớ không và có hữu khuynh với Pháp không”.

Trong vai trò chỉ đạo thi hành Hiệp định Geneva, đồng chí Hoàng Anh đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Khi phát biểu ý kiến, đồng chí thường diễn đạt ngắn gọn, ý tứ rõ ràng, khúc chiết. Lời nói của đồng chí Hoàng Anh vừa chân thành, vừa sâu sắc làm cho mọi người cảm kích kể cả khi đồng chí thẳng thắn sửa chữa những ý kiến nhận định tình hình còn chưa phù hợp với quá trình đấu tranh. Đồng chí cứ điềm đạm phân tích từng điểm của vấn đề rồi từ đó đi đến thống nhất ý kiến, tập trung được trí tuệ của tập thể để có thể giải quyết công việc một cách tốt nhất. 

NGUYỄN BỘI GIONG (Đại tá, nguyên Chuyên viên cao cấp Ban Tổng kết chiến tranh, Bộ Tổng Tham mưu)