Từ đây, ông tích cực phản đối chiến tranh của Mỹ tại Việt Nam thông qua những buổi làm việc với thành viên các nhóm hòa bình đến trại giam. Được trao trả về Mỹ năm 1973, ông tiếp tục hoạt động trong phong trào hòa bình tại quê hương.
Ngay trước chuyến thăm lại Việt Nam đầu tháng 7-2019 vừa qua, Robert P.Chenoweth đã viết bài kể về các hoạt động đấu tranh trên đất nước Mỹ đòi thực hiện Hiệp định Paris.
Tôi được phóng thích ngày 15-3-1973 từ nhà giam Hỏa Lò. Chúng tôi đi trên các xe bus sơn màu ngụy trang tới sân bay Gia Lâm. Tôi đi với các thành viên của “Hội đồng hòa bình”, một tổ chức chống cuộc chiến tranh do chính quyền Mỹ phát động, gồm một số tù binh Mỹ trong trại giam ở Hà Nội. Sau nghi lễ trao trả tù binh, chúng tôi lên máy bay vận tải của Mỹ bay từ Hà Nội đi căn cứ không quân Clark của Mỹ ở Philippines. Sau một số ngày khám sức khỏe, nhận quần áo mới, chúng tôi trở về quê hương. Tôi bay về Hawaii, rồi tới căn cứ không quân Travis, gần San Francisco.
    |
 |
Hạ sĩ Robert P.Chenoweth được trao trả tại sân bay Gia Lâm, Hà Nội, ngày 15-3-1973. |
Một vài tháng sau, tôi được chuyển tới Trung tâm quân y Letterman tại San Francisco, gặp gia đình mình và nói chuyện với người thân về thời gian trong trại giam, các trải nghiệm của tôi về Việt Nam. Sau vài tuần, tôi được phép về nhà nghỉ ngơi dưỡng bệnh. Ở nhà chỉ được vài ngày, rất đông các phóng viên truyền hình và báo chí đến gặp tôi. Tôi đã được nhận dạng như một thành viên của “Hội đồng hòa bình” và đó chính là những gì mà các nhà báo muốn phỏng vấn tôi.
Cùng kỳ, tôi tới Los Angeles để gặp Al Riate, một tù binh Mỹ phản chiến. Chúng tôi cùng tới thăm Khu bảo tồn Warm Springs Indian. Cha tôi cũng tới đó cùng chúng tôi cưỡi ngựa, câu cá, nghỉ ngơi tại quê hương.
Khoảng ngày 29 hoặc 30-5-1973, trong một chuyến đi cùng cha tôi và mẹ kế, tôi đọc thấy trong một tờ báo nhan đề “Các cựu tù binh Mỹ bị buộc tội bởi một sĩ quan không lực”. Tôi nhận được một tin nhắn nói rằng cần gặp luật sư quân đội của mình tại Presidio. Cha tôi và tôi đi máy bay về San Francisco ngay ngày hôm sau. Chúng tôi gặp vị luật sư quân đội của tôi, nghe ông giải thích về các cáo buộc chống lại tôi. Cụ thể là một đại tá không quân Mỹ tên là Guy đã buộc tội các thành viên của Ủy ban hòa bình (một nhóm tù binh Mỹ phản chiến gồm 7 người) về những hành vi mà theo lời kể của một số tù binh khác, đã được chúng tôi thực hiện. Chúng tôi gặp Guy chỉ một lần, một ngày trước khi được thả, khi nhóm tù binh được trao trả của tôi tập hợp đội hình. Ông ta yêu cầu tất cả chúng tôi kéo phéc mơ tuya áo vest xám do Việt Nam phát lên cùng một mức thống nhất, cho hợp với quy cách đồng phục nhà binh. Luật sư của tôi nói rằng các buộc tội này ở mức “những lời đồn đại” và đa số trong chúng chắc sẽ bị gạt bỏ. Cha tôi tuyên bố nếu quân đội Mỹ định đưa tôi vào tù vì các hoạt động chống chiến tranh, ông sẽ lái xe đưa tôi sang Canada. Tôi rất tự hào về cư xử của cha tôi lúc đó. Quãng đời tù binh của tôi là nỗi đau đối với ông, người cho tới Giáng sinh năm 1971 mới được tin đích thực là tôi đã bị bắt làm tù binh. Ông là một cựu binh Chiến tranh thế giới thứ hai, phục vụ trong binh chủng tàu ngầm ở Thái Bình Dương. Ông đã sớm nhận biết rằng cuộc chiến tranh ở Việt Nam là sai lầm của Chính phủ Mỹ. Ông đã lưu ý tôi nhiều lần trước khi tôi sang miền Nam Việt Nam năm 1967, rằng chúng ta đã bị lừa, rằng lợi ích của các tập đoàn lớn và của cánh hữu dẫn dắt cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam. Các nhà sản xuất lớn về vũ khí, quân dụng của Mỹ đang làm giàu trên xương máu của tuổi trẻ Mỹ. Ông biết rằng chúng tôi chiến đấu không phải để “cứu Việt Nam khỏi chủ nghĩa cộng sản”. Lúc đó tôi không biết rằng các tri thức này ông đã tích lũy trong kỷ nguyên suy thoái của Mỹ cùng kỳ với cuộc chiến tranh ở Việt Nam.
    |
 |
Ông Robert P.Chenoweth thăm lại Di tích nhà tù Hỏa Lò ngày 27-11-2017. Ảnh: Nguyễn Anh Tuấn và Ban quản lý Di tích Nhà tù Hỏa Lò |
Vào đầu tháng 6, Larry Kavanaugh, một tù binh Mỹ phản chiến tái ngộ với tôi, cùng vợ của anh ấy là Sandy và con gái Cindy mà Larry chỉ được gặp sau khi trao trả. Họ đến vào kỳ Lễ hội hoa hồng ở Portland. Chúng tôi cùng thưởng ngoạn cuộc diễu hành và tôi đưa họ đi tham quan một số vùng quanh nhà tôi. Họ về nhà mình sau lễ hội vào ngày 12 hoặc 13-6. Tới ngày 27-6, tôi được tin Larry tự sát tại nhà (theo tin trên New York Times, Larry tự sát là do không chịu đựng nổi những lời buộc tội của đại tá Guy). Đó là một ngày rất buồn.
Tôi tham dự tang lễ của Larry cùng với các bạn tù binh Mỹ được trao trả vào ngày 2-7. Buổi chiều, tôi nhận được một cuộc điện thoại nói tôi cần tới Trại nghỉ dưỡng Presidio. Cha tôi và tôi đáp máy bay tới Trung tâm quân y Letterman. Tôi được cho biết rằng các cáo buộc chống lại tôi đã bị bác bỏ và tôi đã không còn được ở lại quân ngũ. Hôm ấy đã quá muộn để làm thủ tục giải ngũ và ngày hôm sau là 4-7, Ngày Độc lập của Hoa Kỳ. Cha tôi và tôi được đưa sang binh trạm tại Oakland, chỉ trong một tiếng tôi ra khỏi quân đội Mỹ. Cuối tháng 7, tôi nhận được một lá thư từ tổ chức Tuần hành vì hòa bình ở Đông Dương mời tôi tới gặp Tom Hayden và Jane Fonda. Họ cho biết họ đang khởi đầu cuộc đi khắp nước Mỹ để giải thích Hiệp định Paris, gây áp lực lên Chính phủ Mỹ chấm dứt sự ủng hộ chế độ của Thiệu ở Sài Gòn.
Một nhà giáo người Pháp là Jean Pierre DeBris, bị bắt và giam cầm ở khám Chí Hòa khét tiếng của chế độ Sài Gòn, cũng tham gia cuộc tuần hành. Cùng bị bắt giam với DeBris là Andre Menras cũng là nhà giáo người Pháp.
Bắt đầu từ tháng 9, cùng với ca sĩ Holly Near, chúng tôi đã đi tới 36 thành phố ở Mỹ trong 3 tháng. Cuộc tuần hành cho tôi cơ hội gặp nhiều thành viên của phong trào chống chiến tranh ở Mỹ. Tôi được gặp Cora Weiss,
Don Luce, Garth Porter, Fred Branfman, Tom Hayden và các thành viên tổ chức cựu chiến binh ở Việt Nam chống chiến tranh, cùng vô vàn các cốt cán khác của phong trào. Mỗi người trong họ kể cho tôi nghe các kinh nghiệm của mình khiến tôi rất cảm động. Trước đó, tôi từng đọc thấy tên của họ trong các sách báo về phong trào chống chiến tranh và thấy một số trong họ trên phim ảnh. Tôi đã diễn thuyết trước hàng ngàn người Mỹ về trải nghiệm chống chiến tranh của mình và được chào đón nồng hậu.
Trong khuôn khổ cuộc tuần hành này, tôi chia sẻ kinh nghiệm với các tổ chức khác và tiếp tục cuộc đi khắp nước Mỹ để diễn thuyết, trao đổi. Sau này, tôi đã đi trong đội hình của dự án giáo dục di động về Đông Dương vượt ra khỏi phạm vi bang Washington DC, cùng công chiếu bộ phim “Năm Dần” (năm 1974, phim về hòa bình ở Việt Nam) với đạo diễn David Davis. Năm 1976, tôi lập gia đình và chuyển tới bang Washington DC. Tôi làm việc tại phòng thí nghiệm phục dựng của Bảo tàng Quốc gia Smithsonian về lịch sử thiên nhiên. Tôi bắt đầu học hỏi về thế giới của bảo tàng. Sau khi có bằng Nhân chủng học, tôi làm cho Bảo tàng Quốc gia Smithsonian về khoảng không và vũ trụ với chức vụ kỹ thuật viên ngành bảo tàng. Tôi tiếp tục tham gia tích cực các nhóm diễn thuyết và hỗ trợ tiến bộ. Cùng một số người Mỹ, tôi sang Montreal để ủng hộ những người phản đối chiến tranh ở Nam Phi và người bỏ ngũ, không chịu tham chiến ở Namibia. Chúng tôi đã cho những cốt cán và lãnh đạo phong trào tiến bộ ở các nước khác tới ở nhà mình.
Trong cuộc sống, dù hằng ngày tôi có cơ hội trao đổi với mọi người về các giá trị của hòa bình nhờ vào trải nghiệm trong quãng đời tù binh của mình, nhưng chính tổng thể kinh nghiệm về Việt Nam mới gọt giũa được tư duy của tôi tới mức có thể giúp người khác nhìn nhận thế giới một cách rõ ràng, nhận thức được các mối quan hệ đang tạo nên thế giới của chúng ta. Hôm nay, khi trao đổi với người khác về cung nỏ cổ truyền ở Trung Quốc, Việt Nam và Mông Cổ, tôi có thể giải thích cho người nghe về lịch sử của ngành cung tên và chủ nghĩa thực dân đã tiến công các nền văn hóa cổ này ra sao, hệ quả của việc này tới ngày hôm nay như thế nào. Chính cây cung và mũi tên cổ đã trở thành một phương thức để đối thoại với người khác.
ROBERT P.CHENOWETH
LÊ ĐỖ HUY (dịch)