Những chiến công của C21 đã đi vào huyền thoại và được nhân dân Hồng Ngự (Đồng Tháp) suy tôn thành “những ông thần nước C21”. Tuy nhiên, do đơn vị đã giải thể, phiên hiệu đơn vị không còn, không có cơ quan chủ trì đứng ra tập hợp thông tin, tài liệu nên đến nay, các chiến công và sự hy sinh anh dũng của C21 chưa được ghi đầy đủ trong chính sử. Trở về địa phương, nhiều cựu chiến binh C21 gia cảnh khó khăn, trên người đầy thương tích, bệnh tật. Nhiều trường hợp không được hưởng các chế độ do thất lạc giấy tờ...
Bài 1: Chiến công trên những dòng sông
“Tôi là Phạm Văn Quyền, lính đặc công nước thuộc Đội C21, Liên đội 2 do Lữ đoàn 126, Bộ tư lệnh Hải quân huấn luyện. Trong một trận đánh tàu địch trên sông Cửu Long, 3 đồng đội tôi hy sinh. Tôi bị địch bắt, chịu tra tấn cùng cực. Đơn vị tưởng tôi hy sinh không còn thi thể nên đã gửi giấy báo tử về địa phương. Hòa bình lập lại, tôi trở về nhưng mất hết giấy tờ. Đến nay nhiều chế độ chưa được công nhận…”.
Từ cuộc điện thoại bất ngờ và tiếng nấc nghẹn giữa chừng của người cựu chiến binh ấy, chúng tôi tìm về Nam Định để gặp những người lính đặc công nước năm xưa.
“Thần nước C21” ra trận
Tiếp chuyện chúng tôi trong căn nhà 3 tầng tại TP Nam Định là 3 cựu chiến binh Nguyễn Xuân Ngọc, Phạm Văn Quyền, Vũ Hồng Quế thuộc Đội C21. Những năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, C21 được giao nhiệm vụ đánh địch nơi “yết hầu” biên giới Việt Nam-Campuchia. Khác với hình dung ban đầu của tôi, sau bao năm các cựu chiến binh vẫn cường tráng dù đều đã lớn tuổi.
    |
 |
Lính đặc công nước C21 ở chiến trường Hồng Ngự. Ảnh tư liệu. |
Ngày ấy, những chiến sĩ đặc công nước như ông Ngọc, ông Quế, ông Quyền mỗi ngày phải bơi huấn luyện thể lực và kỹ thuật đạt hàng chục ki-lô-mét từ biển Cát Hải qua Đồ Sơn (Hải Phòng). Các bài tập đánh tàu, đánh cầu, kho tàng, công trình bến bãi bằng kỹ thuật bơi ngầm và áp mạn tàu được các ông thuộc lòng. “Mùa đông, gió biển rào rào, chúng tôi vẫn thân trần ngụp lặn dưới đáy biển. Da tái nhợt, môi thâm sì vì rét. Gian khổ nhưng vẫn quyết tâm…”, ông Quế nhớ lại.
Ngày 5-10-1970, C21 hành quân vào miền Nam, biên chế về Phòng Đặc công, Quân khu 8 (nay là Quân khu 9). Ngày 12-8-1971, C21 đến tỉnh Pray Veng (Campuchia) và nhận lệnh đánh tàu ở phà Nếp Nương. Đây là trận đánh đầu tiên của C21 và cũng là trận mở màn cho liên đội nên có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Được sự giúp đỡ của du kích người Việt trên đất Campuchia, hai tổ chiến đấu: Tổ 1 gồm đồng chí Phùng Minh Kiếm (hiện ở Tân An, Yên Hưng, Quảng Ninh)-tổ trưởng và đồng chí Nguyễn Xuân Ngọc; tổ 2 gồm đồng chí Nguyễn Minh Châu (hiện sống tại Thái Thụy, Thái Bình)-tổ trưởng và đồng chí Đỗ Viết Trọng (đã hy sinh tháng 9-1971) tiếp cận bến phà. Mỗi tổ mang theo một quả mìn rùa nhận lệnh đánh chìm tàu địch trong đêm.
Tháng 8, nước sông chảy xiết, Ngọc và Kiếm bơi vào cồn đất sát bến phà nhưng đến nơi thì vắng tanh nên quyết định ém quân, ẩn xuống bãi sậy chờ tàu địch lên. Sông Mê Kông mùa nước lặng, cá sấu từng đàn nằm ngửa bụng trên bờ như xuồng ba lá. Dù đã tập kỹ thuật đánh cá sấu nhưng chỉ mới nghĩ đến thôi, ai cũng toát mồ hôi. 9 giờ đêm hôm sau, hai chiếc tàu tuần tiễu của địch đi lên. Hai anh bơi áp sát mạn thuyền. Ngọc gắn mìn rùa, Kiếm rút chốt chờ hẹn giờ rồi bơi ra. 10 phút sau, một tiếng nổ lớn rung chuyển bến cảng. Tổ thứ hai lúc này cũng vừa bơi ra, mìn phát nổ. Hai chiếc tàu tuần tiễu của địch loại 50 tấn và 100 tấn bị hai tổ thuộc C21 đánh chìm trong đêm. Địch điên cuồng càn quét hai bên sông. Mất liên lạc với bộ phận đón quân trên bờ, Ngọc và Kiếm tiếp tục bơi về xã Vĩnh Phước cách đó 20km. Đang bơi thì Kiếm đuối sức, thì thào: “Ngọc ơi, cậu bơi tiếp đi, tớ chắc không qua khỏi”. Ngọc quả quyết: “Không được! Anh em cùng sống cùng chết!”. Ngọc ngửa người vừa bơi vừa dìu đồng đội về điểm tập kết. Chiến thắng trận mở màn đã làm nức lòng quân dân. 4 chiến sĩ ra quân trận đầu được tặng danh hiệu “Dũng sĩ đánh giao thông”.
Nhưng C21 nổi tiếng nhất là trận đánh tàu dầu ở ấp 2, xã Thường Phước, huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp. Trận đánh nức lòng được quân khu khen ngợi vì có sự kết hợp sáng tạo giữa đánh áp mạn tàu và hỏa lực B41. Đầu năm 1972, C21 được Quân khu 8 giao nhiệm vụ đánh các mục tiêu tàu neo đậu, tàu cơ động, bến cảng, kho tàng và cầu trên sông Cửu Long đoạn từ huyện Hồng Ngự đến Tân Châu, lên tới biên giới Campuchia, trải dài 30km. Được sự giúp đỡ của lực lượng du kích địa phương xã Thường Phước, C21 đã trinh sát địa bàn, bố trí phân tán lực lượng. Ngày 22-3-1972, nhận được tin báo có tàu dầu lên, C21 cử hai tổ xuống nước. Tổ 1 gồm đồng chí Lê Hồng Lĩnh-tổ trưởng và Phạm Văn Quyền; tổ 2 gồm đồng chí Lê Hồng Phấn-tổ trưởng và Phan Hữu Chín. Mỗi tổ mang theo 60kg thuốc nổ C4. Một bộ phận khác dùng B41 nằm trên bờ sẵn sàng nhận lệnh bắn tàu. 23 giờ ngày 23-3-1972, trời tối đen như mực, sông Cửu Long nước chảy lờ đờ, đồng chí Lĩnh và Quyền tiếp cận đoàn tàu 5 chiếc đang đỗ cách bờ khoảng 3km. Quyền buộc khối thuốc nổ C4 vào phao rồi dùng kỹ thuật bơi áp mạn chiếc tàu duy nhất không bật đèn (theo kinh nghiệm đó là tàu chở hàng). Quyền cột khối thuốc nổ vào lốp ô tô dưới mạn tàu. Lĩnh rút chốt chì hẹn giờ. Sau tiếng nổ, con tàu dầu trên một vạn tấn bị đánh chìm. Tổ thứ hai của đồng chí Phấn và Chín cũng vừa lúc đó đánh chìm một tàu hàng 8.000 tấn. Sáng hôm sau, nhân dân vô cùng vui mừng vì tàu địch chìm. Bà con chèo xuồng, mang gàu ra vớt dầu và hàng trôi nổi trên sông.
Chiến công và sự hy sinh thầm lặng
Chiến thắng đêm 23-3-1972 được ghi lại trong cuốn kỷ yếu “Đặc công Hải quân, hành trình 50 năm (1966-2016)” ghi lại: “Sau trận đánh này địch vô cùng hoảng sợ. 4 đồng chí của C21 được tặng thưởng Huân chương Chiến công và danh hiệu dũng sĩ”.
Gần một tháng sau, với khí thế ra trận là đánh thắng, đêm 17-4-1972, hai tổ đánh áp mạn tàu gồm, tổ 1: Đồng chí Nguyễn Đức Tính và Nguyễn Văn Ré; tổ 2: Đồng chí Nguyễn Minh Nhâm và Hồ Sở Hồng dùng hai khối thuốc nổ C4 loại 80kg, kết hợp với 5 cụm súng B41 trên bờ đánh chìm hai tàu hàng 10.000 tấn và 7.000 tấn. Một thời gian sau, Đài Phát thanh Giải phóng công bố quyết định của Bộ chỉ huy Miền tặng thưởng Huân chương Quân công hạng Ba cho đơn vị”.
    |
 |
Các cựu chiến binh C21 trao cờ giải phóng tặng nhân dân Hồng Ngự, Đồng Tháp. Ảnh: THÙY NGÂN. |
C21 trở thành nỗi khiếp đảm của Mỹ-ngụy. Chúng rêu rao “nếu bắt được người nhái Việt cộng sẽ moi gan xào nhậu chơi”, nhưng cũng không giấu được nỗi khiếp sợ. Gặp một nhánh lục bình đơn lẻ chúng bắn rải đạn, tàu đậu cứ 5 phút chúng lại ném một quả lựu đạn xuống sông. Kết thúc chiến dịch mùa khô năm 1972, C21 “bội thu” huân, huy chương và bằng khen. Trong thời gian từ năm 1971 đến 1975, C21 đã đánh khoảng 30 trận, đánh chìm tại chỗ 11 tàu chiến và tàu vận tải quân sự (trong đó có 7 tàu vận tải trọng lượng 7.000-10.000 tấn), 4 tàu tuần tiễu. C21 cùng du kích và bộ đội địa phương đánh hỗ trợ, tiếp tế, giải vây cho Trung đoàn bộ binh 207. Những chiến công của C21 góp phần vào thành tích chiến đấu của quân dân ta trên chiến trường miền Nam lúc bấy giờ và được bà con nhân dân Hồng Ngự suy tôn là “những ông thần nước C21”.
Tháng 11-1975, toàn Đội C21 rời căn cứ Đồng Tâm ra Cam Ranh (Khánh Hòa). Tại đây, đơn vị giải thể. Một số đồng chí được giữ lại xây dựng đơn vị mới, còn lại đều phục viên. Ông Ngọc cho chúng tôi xem danh sách 22 liệt sĩ của đơn vị mà nước mắt chực trào. Ông kể: “Đêm 27-1-1973, đang chỉ huy chốt chặn trên đồi Cây Dừa, thuộc xã Thường Phước thì tổ trưởng Phạm Đức Sơn bị thương nặng. Để bảo toàn lực lượng, tổ trưởng Sơn ra lệnh cho hai đồng đội rút lui về căn cứ, còn anh tiếp tục ở lại chiến đấu đến hơi thở cuối cùng. Bọn địch kéo xác anh khắp xã để thị uy, sau đó mổ lấy gan, bỏ xác anh giữa cổng đồn. Bà con nhân dân, du kích đã lén lấy xác anh về đem chôn. Trước đó bọn địch đã hành xác anh Lê Hồng Phấn (Thái Bình) một cách dã man. Chúng buộc xác anh vào xe Jeep kéo dọc ấp, đến từng nhà để thị uy. Chúng còn bắt bà con dùng roi đánh vào xác, nếu không đánh, chúng quy là thân cộng sản”. Trong số 22 chiến sĩ của C21 hy sinh trên chiến trường, đến nay chỉ 3 phần mộ liệt sĩ được quy tập về địa phương, số còn lại vẫn nằm rải rác dọc bờ sông Cửu Long, đồng ruộng, rừng núi…
(còn nữa)
PHẠM KIÊN