Theo tài liệu lưu trữ của Cơ quan An ninh quốc gia (NSA) và Bộ Quốc phòng Mỹ, từ năm 1957, lính biệt kích (lực lượng đặc biệt) của Mỹ đã xuất hiện tại Việt Nam với nhiệm vụ cố vấn, nâng đỡ cho chính quyền ngụy Sài Gòn. Về sau, đây chính là lực lượng huấn luyện biệt kích cho quân đội ngụy. Những trung tâm huấn luyện biệt kích như Thủ Đức, Long Thành (Sài Gòn), Hòa Cầm (Đà Nẵng)... được thành lập và hoạt động mạnh, cung cấp quân biệt kích phục vụ cho chiến lược theo dõi, thám báo, tiến hành hoạt động đánh phá miền Bắc, thu thập tin tức về hệ thống con đường chi viện chiến lược Trường Sơn - Đường Hồ Chí Minh của Việt Nam, rải truyền đơn, gài mìn, bắt cóc... Các toán biệt kích nhảy dù, đáp thuyền cài cắm vào các vùng từ Tây Bắc, Đông Bắc cho đến Nghệ-Tĩnh, Quảng Bình và cả Khe Sanh, Hạ Lào... 

Khác với những hành động đã được triển khai trước đó, vụ tập kích Sơn Tây nhằm thực hiện mưu đồ giải cứu táo bạo, diễn ra vào tháng 11-1970. Đối phương đã đưa lực lượng đặc biệt xâm nhập sâu vào lãnh thổ miền Bắc nước ta. Địa điểm được xác định chỉ cách Thủ đô Hà Nội khoảng 30km về hướng Tây Bắc.

leftcenterrightdel

 Toán biệt kích đổ bộ xuống Sơn Tây, tháng 11-1970. Ảnh tư liệu

Trước đó, tháng 4-1970, cơ quan FAG 1127 (còn có mật danh Phi đội 1127) thuộc Bộ chỉ huy Không lực Mỹ tại căn cứ Fort Belvoir thuộc tiểu bang Virginia nhận được tin tình báo cho biết Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa đang giam giữ các tù binh Mỹ tại ngoại ô Sơn Tây. Thiếu tướng James R.Allen, Phó giám đốc Kế hoạch và Chính sách của không quân Mỹ đề nghị về một nỗ lực giải cứu. Những tài liệu do Allen cung cấp đã thuyết phục được Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Melvin Laird và Bộ Tham mưu liên quân.

Ngày 8-8-1970, nhóm Đặc nhiệm Tình trạng bất ngờ hỗn hợp (MCG) được thành lập, có trách nhiệm phụ trách việc triển khai các kế hoạch hành quân chi tiết và tổ chức cũng như huấn luyện nhân viên thực hiện cuộc giải cứu. Cùng với đó, một đội an ninh đặc biệt cũng được tổ chức để triển khai những “câu chuyện” nhằm che đậy và vận dụng các biện pháp phản gián để bịt khe hở. Thiếu tướng Leroy J.Manor, Tư lệnh Lực lượng hoạt động đặc biệt của Không lực Hoa Kỳ tại căn cứ Eglin, tiểu bang Florida, được cử làm Tư lệnh chịu trách nhiệm chỉ huy nhóm đặc biệt này. Đại tá Arthur D.Simons thuộc Quân đoàn Nhảy dù 18 tại trại Fort Bragg, tiểu bang North Carolina, là Phó tư lệnh. Do vấn đề thời gian, việc huấn luyện phi hành đoàn và các lực lượng diễn ra đồng thời với công tác hoạch định kế hoạch hành động. Đường xâm nhập sẽ khởi hành từ Takhli, miền Trung Thái Lan, ngang qua Lào và dọc theo phía Tây của miền Bắc nước ta.

Suốt tháng 8 và hầu hết tháng 9, Đô đốc Noel Gayler, đại diện Giám đốc NSA tại MCG và Milton Zaslow, đại diện NSA tại Bộ Quốc phòng là những người của NSA biết đến cuộc tập kích Sơn Tây. Gayler và Zaslow đã quyết định phái thêm nhiều nhân viên tham gia vào hoạt động này bởi họ cảm thấy  đại diện của NSA tại MCG không được tiếp cận với mọi tin tức có thể cần đến.

5 ngày trước cuộc tập kích, Gayler và Zaslow bay đến Đà Nẵng, “tổng hành dinh” của lực lượng tham gia cuộc hành quân. Một ngày trước khi thực hiện nhiệm vụ, các viên chức NSA đã sắp xếp một tin nhắn sẽ được gửi đến mọi địa điểm để theo dõi các hoạt động trên không phận miền Bắc Việt Nam mà không tiết lộ bản chất của phi vụ. Thời gian của cuộc hành quân được thay đổi sớm hơn một ngày bởi cơn bão Patsy đổ xuống Philippines, tràn vào Biển Đông và vùng vịnh của Việt Nam, có thể ảnh hưởng đến đường xâm nhập của máy bay chở nhóm biệt kích.  

21 giờ ngày 20-11, các máy bay trực thăng và máy bay vận tải C-130 chở các lực lượng giải cứu và những chiếc máy bay hộ tống bắt đầu rời căn cứ Takhli hướng đến Sơn Tây. Hơn 100 máy bay chủ yếu phục vụ công tác yểm trợ hoạt động từ 7 căn cứ và 3 hàng không mẫu hạm cũng “tham dự nhiệm vụ”. Để gây rối loạn hệ thống phòng không của ta, hải quân Mỹ đã triển khai các hoạt động đánh lạc hướng ở cảng Hải Phòng, trong khi các máy bay chở lực lượng biệt kích đang bay theo hướng ngược lại đến Sơn Tây. Sự yểm trợ trên đất liền và trên không là một phần kết hợp của “phi vụ Sơn Tây”. Tổng thời gian từ khi bắt đầu cho đến lúc thu quân theo tính toán của phía Mỹ là khoảng 5 giờ 30 phút, trong đó có 30 phút ngừng bay để các binh sĩ hành động giải cứu.

leftcenterrightdel

 Trại giam Sơn Tây khoảng tháng 10-1970. Ảnh tư liệu

Một phòng hội nghị đã được thiết lập tại Lầu Năm Góc cho Bộ Tham mưu liên quân và đại diện cao cấp từ các binh chủng cùng cộng đồng tình báo quan sát cuộc hành quân. Khoảng 40 phút sau khi khởi hành, Lầu Năm Góc được báo động về khả năng xuất hiện máy bay MiG của Việt Nam. Tướng Zaslow kể lại trong một cuộc họp báo: “Tại phòng kín của Trung tâm hành quân ở Mỹ thu được cuộc đàm thoại lúc 2 giờ 17 phút (theo giờ Sơn Tây), tiếng viên phi công MiG yêu cầu đài kiểm soát tại sân bay Phúc Yên (sân bay Nội Bài hiện nay-PV): “Cho tôi một lệnh bay, cho tôi một lệnh bay”. Viên phi công này muốn biết hướng bay và vùng chiến đấu của mình tại đâu. Đài kiểm soát chỉ thị cho đương sự đợi lệnh. Trong giây phút đó, chúng tôi ai cũng lo ngại. Một trong những đường bay tại sân bay Phúc Yên có hướng cho máy bay bay thẳng qua trại Sơn Tây. Im lặng kéo dài trong 4 phút cho đến khi tiếng Đài kiểm soát Phúc Yên trả lời: Không có việc gì cả!... Đó là những phút thật dài đối với tôi. Khi nhận được báo cáo sự việc, niềm tin của tôi đối với quân đội đã gia tăng một cách đáng kể”.

Theo Zaslow, các phán đoán của Mỹ về phản ứng của hệ thống phòng không miền Bắc đối với cuộc xâm nhập, số lượng và chất lượng của các nguồn tin tình báo cung cấp cho nhóm kế hoạch Sơn Tây rất chính xác. Lực lượng tấn công chính yếu của họ không hề bị phát hiện khi đổ bộ, xâm nhập và thoát ra ngoài an toàn để sau đó rút ra khỏi Việt Nam. Việc đối phương “nghi binh” nhắm vào các mục tiêu bên hướng Đông và hướng Tây của các sân bay chiến đấu chính yếu đã khiến hệ thống chỉ huy và kiểm soát phòng không của ta bị phân tán. Sự đánh lạc hướng có kế hoạch của hải quân Hoa Kỳ đã có hiệu quả. “Các kế hoạch và việc triển khai chúng gần như không có khuyết điểm. Song, khi lực lượng tấn công của chúng tôi đổ bộ xuống trại giam Sơn Tây, cuộc lục soát kỹ lưỡng nhà giam diễn ra nhanh chóng.

Các phòng giam đều trống rỗng. Cuối cùng, họ đã bay về Thái Lan với hai bàn tay trắng. Sau này, chúng tôi mới biết, chính quyền Hà Nội đã chuyển toàn bộ số tù binh ở trại Sơn Tây về nhà tù Đan Hội (cũng thuộc địa phận Sơn Tây) chỉ cách trung tâm Hà Nội khoảng 20km về phía Tây từ ngày 14-7-1970”, Zaslow nói.

Từ các báo cáo sau này đã tiết lộ thêm nhiều chi tiết về cuộc tập kích. Theo đó, bắt đầu từ tháng 4-1970, các phi vụ chụp không ảnh trên trại giam được phía Mỹ tiến hành bởi máy bay SR-71 và các máy bay thám thính không người lái Buffalo Hunter đã xác định sự hiện diện của các tù binh Mỹ ở Sơn Tây. Tuy nhiên, trong những tháng kế tiếp, các phi vụ chụp không ảnh, ước tính khoảng 20 chuyến cho mỗi máy bay SR-71 và các máy bay không người lái trong vùng, đã cho thấy không có sự hiện diện của các tù binh Mỹ. Trong những tài liệu hình ảnh báo cáo về từ các phi vụ chụp ảnh, không tìm thấy lính gác hay bất kỳ hoạt động nào như lửa khói nấu ăn, các đội hình hay các xe tiếp tế đi liền với hoạt động của nhà tù. Tuy nhiên, “sự vắng bóng” này lại không hề gây thắc mắc cho các nhà hoạch định hành động tập kích. Trong suốt 7 tháng hoạch định và huấn luyện của nhóm giải cứu trước cuộc đột kích, không người nào đặt ra câu hỏi để chứng thực rằng liệu các tù binh có còn ở đó hay không. 

Ngày 25-11-1970, tại phòng họp báo ở Lầu Năm Góc, đích thân Tổng thống Mỹ đã trao huân chương chiến công đặc biệt cho hai chỉ huy là Manor và Simons cùng 2 quân nhân tham gia cuộc tập kích. Buổi lễ kéo dài 13 phút, chỉ bằng nửa thời gian dùng cho cuộc tập kích. Tất cả 3 hệ thống truyền hình của Mỹ đều chiếu lại khung cảnh buổi lễ vào tối hôm ấy. “Nếu Nhà Trắng nghĩ rằng buổi lễ này có thể làm dịu bớt những trận dông bão tranh luận về cuộc tập kích thì thật lầm lẫn. Mặc dù mọi người đều ngưỡng mộ các quân nhân khi họ nhận nhiệm vụ dù đã được cho biết chỉ có 50% may mắn thành công, còn 50% là thiệt mạng. Nhưng vẫn còn số đông người cảm thấy có một điều gì khinh suất trong hành động. “Một điều gì đó” chưa thể công khai, còn sự thực là không có tù binh nào được giải cứu. Mục tiêu cho hành động đã thất bại. Kết quả này chính là câu trả lời cho câu hỏi vì sao Hà Nội không có phản ứng. Có lẽ họ cố tình cho chúng tôi đến, tôi từng nghĩ vậy đấy”, Đại tá Simons từng bộc lộ suy nghĩ ấy trong một số cuộc tranh luận. 

(*) Bài viết có tham khảo tư liệu từ các tác phẩm: “The Son Tay Raid: An Intelligence Paradox”(Vụ tập kích Sơn Tây: Một nghịch lý tình báo) của tác giả Sharon A.Maneki đăng trên tờ The Journal of American-East Asian Relations, Vol.10, No.3-4 (Fall-Winter 2001), trang 211-219 và “The Raid” (Vụ tập kích Sơn Tây) của Benjamin F.Schemmer, Nhà xuất bản Công an nhân dân, H.2004

SONG THANH - SỸ HƯNG