Chuyên từng là một đảng viên cộng sản, quê ở Hồng Quảng (nay là Quảng Ninh). Đầu năm 1958, do thất vọng vì bị vợ phản bội, y sinh ra bất mãn, thoái chí rồi đào ngũ trốn vào miền Nam. Trong trại tị nạn của chính quyền ngụy, lý lịch chính trị của anh ta đã được nhà đương cục chú ý, quyết định tuyển mộ. Suốt 9 tháng, đối phương liên tục thay đổi người đến thuyết phục, Chuyên vẫn nhất mực từ chối lời mời làm việc cho chính quyền ngụy Sài Gòn. Cuối cùng nhiệm vụ đưa anh ta vào tròng được giao cho Trung úy Đỗ Văn Tiên, mật danh Francois. Trong một báo cáo, Francois viết: “Chuyên có vóc người nhỏ bé, thái độ rất lạnh lùng và cứng rắn. Anh ta không nói nhiều. Qua một vài buổi gặp gỡ, cấp trên cho phép tôi đưa Chuyên ra khỏi trại tị nạn để đi xem phim và hòa nhập vào thành phố nhộn nhịp mà lần đầu tiên anh ta biết. Cuối cùng, sau 6 tháng, anh ta không phản đối mỗi khi tôi đến thăm. Và rồi anh ta đã đồng ý làm việc cho chúng tôi, trở lại miền Bắc để trả thù”.
Trải qua một loạt cuộc kiểm tra, Chuyên được tham gia lớp huấn luyện đặc biệt để trở thành điệp viên. Trong khi đó, Francois và Phòng 45 cũng bắt đầu hoạch định kế hoạch cài điệp viên vào miền Bắc. Theo đó, bằng đường biển, Chuyên sẽ quay trở lại Hồng Quảng-trong vai trò một điệp viên lâu dài.
Quá trình chuẩn bị cho chuyến đi của Chuyên, Phòng 45 đã quyết định tiến hành một vụ đưa một điệp viên ngắn hạn vượt khu phi quân sự. Điệp viên trong phi vụ này là một tín đồ Thiên Chúa, quê ở Hà Tĩnh, tên là Vũ Công Hồng (Hirondelle). Anh ta đã qua huấn luyện nghiệp vụ trong một thời gian ngắn, sau đó được đưa đến một địa điểm an toàn trong thành phố Huế. Cùng đến với Hồng còn có 2 tên trung úy thuộc Sở Liên lạc là Phạm Văn Minh (Michel) và Trần Bá Tuấn (Brad), đều đã được huấn luyện đặc biệt. Để sang được bên kia, Hồng sẽ phải vượt một hàng rào tự nhiên là sông Bến Hải. Vậy mà vào phút chót, anh ta mới tiết lộ việc không biết bơi. Không còn thời gian học, Brad quyết định đưa anh ta tới sông Hương, khu vực ngoại ô của Huế, dạy anh ta cách bơi thực tiễn nhất: Khoác một chiếc săm ô tô vào cổ làm phao, sử dụng hai tay để chèo trong khi cơ thể nổi giữa săm và Hồng đã có thể bơi được một quãng ngắn. Thiếu tá Trần Khắc Kính, Phó chỉ huy Sở Liên lạc, người đi cùng vụ xâm nhập đầu tiên này thuật lại trong báo cáo: “Chúng tôi tiến xuống bờ sông vào giữa đêm và theo dõi anh ta từ từ bơi sang bờ bên kia. Sau đó, chúng tôi nghe thấy âm thanh không khí thoát ra từ chiếc săm ô tô giữa bầu không khí yên tĩnh. Điều này cho biết điệp viên của chúng tôi đã lên bờ và dùng lưỡi dao cắt thủng săm. Hirondelle giấu chiếc săm đó và biến vào bóng đêm. Vài tuần sau, anh ta xuất hiện lại ở miền Nam. Tuy chỉ có thể cung cấp thông tin chung chung về đi lại và những biện pháp kiểm soát an ninh ở miền Bắc, nhưng việc anh ta trở về thành công đã tăng thêm lòng tin của Phòng 45”.
Hai tháng sau phi vụ của Hirondelle, Chuyên cũng kết thúc khóa huấn luyện. Nhiệm vụ của anh ta không chỉ là vượt qua khu phi quân sự trong một phi vụ ngắn mà còn là nằm vùng lâu dài, vừa thu thập thông tin, vừa tiến hành tuyển mộ điệp viên mới trong những năm sau. Theo chủ ý của chính quyền ngụy, sự xuất hiện của Chuyên không thể bị nghi ngờ do một người em và họ hàng của anh ta vẫn sống ở khu vực này. Chúng còn có ý định tuyển mộ họ trở thành đồng bọn tự nguyện của Chuyên.
Vậy là đầu tháng 4-1961, với mật danh Ares, Chuyên lên một chiếc thuyền gắn máy có tên Nautilus I, rời Đà Nẵng. Lên bờ ở một địa điểm gần Cẩm Phả (Quảng Ninh), anh ta kéo chiếc thuyền vào một khe nước gần đó, tháo hai chiếc điện đài liên lạc tầm xa và các thiết bị khác chôn giấu vào một cái hố. Rời khỏi bờ biển, Ares bắt đầu tìm chỗ trú ngụ. Công việc đầu tiên anh ta cần phải làm là tìm một trợ lý, người có thể giúp anh ta quay máy phát khi sử dụng điện đài. Không bị ai nhìn thấy, Ares lẻn vào làng và đi thẳng về nhà mẹ đẻ. Gặp lại gia đình, anh ta liền thuyết phục em trai Phạm Độ làm việc cùng. Em trai anh ta miễn cưỡng đồng ý. Thế là Ares đào điện đài được chôn lên, mang về giấu dưới nền nhà rồi phủ một chiếc chiếu làm bằng nan tre lên trên.
Phi vụ đưa Ares thâm nhập miền Bắc có vẻ hoàn hảo. Nhưng có một chi tiết bị bỏ qua đã gây bất lợi cho anh ta. Ngày 9-4-1961, một số người đánh cá phát hiện chiếc thuyền còn nguyên vẹn trong một khe nước và báo cáo chính quyền. Các đội tuần tra của Công an nhân dân vũ trang (nay là Bộ đội Biên phòng) đã rà soát toàn bộ khu vực. Sau khi xác định rõ chiếc thuyền này không thuộc về bất cứ người nào ở địa phương, nghi ngờ có gián điệp thâm nhập, công việc truy tìm ngay lập tức được mở rộng. Từng ngôi nhà dọc theo bờ biển, đặc biệt là những gia đình có người thân đang sống ở miền Nam hoặc những người có mối quan hệ với chính quyền thực dân trước đây, đều được kiểm tra.
Không biết việc đang bị “giăng lưới”, Ares dành phần lớn thời gian lẩn trốn trong khu rừng cạnh nhà. Một trong hai điện đài đã được đưa vào rừng và em trai anh ta phụ trách việc quay máy phát điện. Ares đã gửi bức điện đầu tiên. Để tránh nhiễu tín hiệu, sóng được truyền tới BUGS, mật danh căn cứ điện đài của CIA ở Philippines. Từ đó, bức điện lại được chuyển tiếp tới Văn phòng CIA tại Sài Gòn. Khi bức điện tới nơi, toàn bộ Phòng 45 hoan hỷ reo lên: “Thắng lợi rồi! Thành công rồi!”. Phiên liên lạc điện đài đầu tiên của Ares mang lại một tinh thần phấn khởi cho cả các đặc vụ Mỹ và chính quyền ngụy Sài Gòn. Thậm chí, một bản sao bức điện đã được trình lên Tổng thống ngụy Ngô Đình Diệm. Theo sau đó là 22 tin nhắn khác nhanh chóng được chuyển về...
Tuy nhiên, sự kết thúc cũng đến rất nhanh. Ở Hồng Quảng, cán bộ phản gián của ta đã theo dõi các sóng trên không và thu được một số bức điện mã hóa. Đồng thời, từ nguồn tin báo của nhân dân về việc có một người lạ mặt, sống trong ngôi nhà sát bờ biển, thường cố che mặt mỗi khi ra ngoài. Một người khác sống cùng trong ngôi nhà đó thường khoe có chiếc bút bi mới, một đồ vật rất hiếm thấy ở miền Bắc lúc đó. Với những thông tin này, lực lượng của ta bắt đầu tập trung theo dõi gia đình Chuyên. Ngày 11-6-1961, Phạm Độ bị bắt trên đường mang đồ tiếp tế cho anh trai. 6 ngày sau, Ares cũng bị bắt giữ. Khám xét ngôi nhà, ta đã phát hiện điện đài được chôn dưới đất và mật mã được đặt trong một thúng thóc. Tuy nhiên, ta không công bố vụ việc. Sau 2 tháng đấu tranh với Chuyên, ta cho phép điện đài của Ares tiếp tục hoạt động. Nhận điện, Phòng 45 có hỏi về khoảng thời gian im lặng, trước sự giám sát của ta, Chuyên đã giải thích rằng do mẹ và em gái anh ta bị bắt sau khi không đóng thuế nông nghiệp. Hoảng sợ, anh ta đã chạy trốn lên Hà Nội.
Lời giải thích khá hợp lý, phía chính quyền ngụy Sài Gòn nhanh chóng đáp ứng yêu cầu của Ares, đồng ý cho thuyền Nautilus I quay trở lại vịnh Hạ Long và thông báo cho anh ta về khoảng thời gian và địa điểm dự kiến. Nautilus I rời Đà Nẵng ngày 12-1-1962 và tới Hạ Long thuận lợi. Sau đó, liên lạc điện đài của con thuyền bỗng nhiên chấm dứt một cách đầy bí ẩn. Dù rất lo lắng về sự biến mất của chiếc thuyền cùng thủy thủ đoàn, một số người cũng tỏ ra nghi ngờ Ares, nhưng những người phụ trách anh ta ở Phòng 45 lại thiên về ý kiến cho rằng khi tiến vào bờ, thuyền có nhiều khả năng bị một tàu tuần tra của ta phát hiện tấn công và phá hủy.
“Không nhận được” tiếp tế, Ares liên tục xin hỗ trợ. Ngày 11-4-1963, Phòng 45 lại cho Nautilus II rời cảng đi về phía vịnh Hạ Long. Mặc dù CIA vẫn tin rằng Ares đang kiên định, nhưng để thận trọng, họ đã không báo cho điệp viên này biết thời gian và địa điểm của chuyến hàng tiếp tế mới. Sau hải trình 2 ngày, Nautilus II đậu ở ngoài khơi Hồng Quảng. “Chúng tôi chèo xuồng tới một hòn đảo nhỏ nằm giữa vịnh Hạ Long. Không ai nhìn thấy chúng tôi và chúng tôi đã dỡ tất cả số hàng tiếp tế xuống, ngụy trang bằng các tảng đá và cành cây”, một trong các thủy thủ đi trên thuyền lần ấy nhớ lại. Ngày 2-5, một bức điện đã được gửi cho Ares, thông báo cho anh ta biết vị trí của các thùng hàng tiếp tế. Không lâu sau, trong điện trả lời, anh ta cho biết đã nhận được đầy đủ hàng.
Dù “thành công” với Ares, nhưng lịch sử hoạt động cài cắm điệp viên độc lập ra Bắc của chính quyền ngụy Sài Gòn không có gì mỹ mãn. Danh sách các điệp viên hoạt động độc lập bị mất tích ngày càng dài. Đến năm 1963, ý tưởng đưa điệp viên độc lập nằm vùng lâu dài bằng đường biển để thâm nhập miền Bắc đã mất uy danh rất nhiều. Trong bối cảnh Ares vẫn tồn tại, thì tất cả gián điệp được đưa vào bằng đường biển đã bị mất tích hoặc có thể đã chết. Dù nghi ngờ nhưng cũng mất khoảng 3 năm sau, sự việc mới vỡ lở. Phòng 45 buộc phải thừa nhận sai lầm và chuyển chiến thuật. Còn ta đã thành công “gậy ông đập lưng ông”.
HOẰNG HÓA