Theo hồ sơ lưu trữ, khoảng 22 giờ ngày 27-5-1961, trạm cảnh giới của ta đóng tại bản Hỳ, xã Phiêng Ban (Phù Yên, Sơn La) phát hiện chiếc máy bay C-47 không ký hiệu của hãng hàng không VIAT bay vào không phận. Nhân dân quanh khu vực cũng đồng thời nghe tiếng máy bay rất gần và rõ. Lập tức, dân quân đánh kẻng báo động, các lực lượng khẩn trương tập hợp và tổ chức tìm kiếm. Sau 3 ngày truy lùng, các đơn vị Công an nhân dân vũ trang (nay là Bộ đội Biên phòng) đã tập trung vây chặt khu vực cao điểm 828, toàn bộ 4 tên gián điệp, biệt kích bị bắt không kịp kháng cự, cùng máy móc, vũ khí mang theo.
Sự việc ngay sau đó được báo cáo về Hà Nội. Một loạt chỉ thị mật được ban hành, các đơn vị tại chỗ nhận lệnh phải “tăng cường cảnh giác để đối phó, ngăn chặn và đánh bại âm mưu của kẻ thù”. Âm mưu này, theo giải thích trong chỉ thị, liên quan đến việc đối phương đưa các nhóm biệt kích mới ra miền Bắc. Đích thân Bộ trưởng Bộ Công an Trần Quốc Hoàn chỉ đạo xác lập Chuyên án PY27 để đấu tranh, đi sâu tìm hiểu âm mưu của địch từ cơ quan đầu não của chúng là Trung tâm Chỉ huy biệt kích (Phòng 45) tại Sài Gòn. Đồng chí Bộ trưởng yêu cầu Ban chuyên án phải nắm cho được số điệp viên không vận địch đang huấn luyện, bằng mọi cách dụ chúng đưa hết ra miền Bắc để bắt với phương châm “dùng người của địch, phương tiện của địch để đánh lại địch”.
Cũng từ đây, Bộ Công an lựa chọn những cán bộ dày dạn kinh nghiệm để thành lập Đội chống gián điệp, biệt kích do đồng chí Nguyễn Tài, Cục trưởng Cục Bảo vệ chính trị trực tiếp chỉ đạo. Tham gia chuyên án còn có các đồng chí: Trần Triệu, Giám đốc Công an Khu Tây Bắc; Nguyễn Trọng Tháp, Phó trưởng phòng Bảo vệ chính trị (sau này là Thiếu tướng, Anh hùng LLVT nhân dân, nguyên Cục trưởng Cục Chống phản động Công an nhân dân) và một số trinh sát nội tuyến, trinh sát kỹ thuật giỏi, đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của lãnh đạo bộ. Bên cạnh đó, Trạm thông tin liên lạc (mật danh A10) cũng được thành lập nhằm bảo đảm cho công tác chỉ huy, chỉ đạo bằng thông tin vô tuyến điện được nhanh chóng, chính xác và bí mật giữa Bộ Công an với các địa phương, các thành viên Ban chuyên án và ngay cả với Phòng 45...
Để nắm chắc và cụ thể tình hình, đích thân Cục trưởng Nguyễn Tài dẫn một đoàn cán bộ lên Sơn La, trực tiếp thẩm vấn 4 tên biệt kích vừa bị bắt. Là người có nhiều kinh nghiệm trong đấu tranh với gián điệp, biệt kích nên chỉ sau vài ngày, đồng chí Nguyễn Tài đã thuyết phục thành công các đối tượng: Thượng sĩ Hà Văn Chấp (toán trưởng), Đinh Văn Anh, Lò Văn Piêng và Quách Thức đồng ý cung cấp toàn bộ thông tin về hành động và nhiệm vụ của chúng. Qua đó, ta đã có những tin tức không chỉ có giá trị trên Mặt trận Tây Bắc mà còn trên toàn địa bàn miền Bắc. Các đối tượng khai nhận: Được Sề Cồ Tin (dân tộc Thổ, vốn là một Trưởng bản ở Lào Cai thân Pháp; đầu thập niên 1960, y vào Sài Gòn và trở thành một trong số cố vấn chủ chốt của Phòng 45) tuyển chọn gia nhập nhóm biệt kích đường không hỗn hợp do CIA huấn luyện để phục vụ cho kế hoạch hoạt động ở vùng cao nguyên dọc biên giới phía Bắc Việt Nam. Có mật danh Castor, đây là nhóm đầu tiên đổ bộ đường không xuống miền Bắc với nhiệm vụ do thám, thu thập tin tức, quan sát đường đi, được yêu cầu chỉ liên hệ hạn chế với người dân địa phương...
Trên cơ sở tổng hợp nhiều nguồn tin tin cậy, một kế hoạch chi tiết đã được báo cáo, để sau đó ta thực hiện chiến thuật “gậy ông đập lưng ông”, dùng chính toán Castor để tìm hiểu âm mưu của địch, chủ động dụ chúng “rời hang”, mang theo các loại phương tiện, vũ khí hiện đại ra Bắc. Năm 2013, trong lần phỏng vấn tại nhà riêng ở phố Mạc Đĩnh Chi, Hà Nội, tôi được Thiếu tướng Nguyễn Trọng Tháp (1928-2020) cho biết: “Việc nhóm Castor thành khẩn khai báo và tình nguyện cộng tác với cơ quan an ninh nhằm lập công chuộc tội là điều kiện thuận lợi để ta tiến hành kế hoạch câu nhử.
Hơn một tháng sau khi xâm nhập, tại phiên liên lạc đầu tiên về Sài Gòn của Castor diễn ra vào 12 giờ trưa 29-6-1961, ta lệnh cho tên hiệu thính viên Lò Văn Piêng chuyển về Trung tâm chỉ huy bức mật điện theo nội dung soạn sẵn. Nhận điện báo, Phòng 45 vui mừng khôn xiết, đồng ý đề nghị tiếp tế cho Castor trong 4 ngày. Trước giờ hẹn 20 phút, tại Sơn La, lực lượng Công an nhân dân vũ trang đã đến bãi đất trống nơi được xác định qua liên lạc bằng điện đài với Sài Gòn là Castor sẽ chờ sẵn để nhận hàng.
Theo đúng quy ước, một đống lửa được đốt làm ám hiệu. Sau đó, ta lệnh cho Hà Văn Chấp liên lạc với cơ trưởng báo thời cơ hành động. Nhưng một tình huống bất ngờ đã xảy ra. Chiếc máy bay địch khi đến địa phận Ninh Bình thì bị bộ đội phòng không của ta bắn trúng. Máy bay bị hỏng nghiêm trọng, mất độ cao và rơi xuống một nông trường, phi hành đoàn có 4 tên chết do bị thương nặng, 3 tên sống sót bị ta bắt được. Sự việc có thể phá hỏng kế hoạch phản gián lâu dài của ta. Vì vậy, để địch không nghi ngờ, ta buộc phải đưa các đối tượng này ra xét xử công khai tại phiên tòa khai mạc ngày 15-11-1961”.
Tuy nhiên, đúng như phán đoán của ta, địch vẫn nghi ngờ về khả năng có thể Castor bị lộ nên chúng dùng mọi biện pháp kiểm tra suốt 8 tháng liền. Liên tục các bức điện đầy nghi ngờ phát đi từ Sài Gòn. Phiên liên lạc nào chúng cũng yêu cầu cung cấp đầy đủ ký, tín, ám hiệu quy ước cho từng người trong nhóm. Đôi lúc Sài Gòn còn lệnh điều Castor di chuyển trong rừng rậm, núi cao với bán kính lên tới gần 100km theo lộ trình quy định sẵn và cung cấp tin tình báo ngay trên đường cơ động hay yêu cầu nhóm này phá hủy các công trình công cộng ở miền Bắc theo chỉ định. Những nhiệm vụ giao cho Castor, địch đều sử dụng máy móc tối tân để kiểm tra, có trường hợp sử dụng cả gián điệp mặt đất để thẩm tra. Dù vậy, Ban Chuyên án PY27 vẫn khéo léo thỏa mãn mọi yêu cầu của địch. Cán bộ, chiến sĩ của ta đã vào vai những tên biệt kích thực thụ, tiến hành các “phi vụ” theo yêu cầu và cung cấp bằng chứng để củng cố niềm tin của địch rằng Castor vẫn an toàn.
Trong báo cáo, đồng chí Trần Triệu viết: “Sài Gòn nhiều lần thử thách điệp viên. Chúng cố tìm ra sơ suất hay bất thường trong điện trả lời của họ. Chúng còn chăm chú lắng nghe xem nhân viên điện đài sử dụng kỹ thuật đánh điện ra sao, nhịp và cách đánh các từ theo tín hiệu morse để từ đó xác định xem Castor có phản bội không.
    |
 |
| 3 đối tượng gián điệp, biệt kích trong Chuyên án PY27 bị đưa ra xét xử công khai ngày 15-11-1961. Ảnh tư liệu
|
Một lần, địch giao nhiệm vụ cho Castor phá cầu Tà Vài trên Quốc lộ 6. Đây là cây cầu ở vị trí xung yếu, có thể làm ách tắc trục giao thông chính của Tây Bắc. Bỏ con săn sắt để bắt con cá to, chúng tôi đành cho lực lượng chủ động phá cầu theo tính toán riêng, vừa đủ để chứng thực việc thi hành mệnh lệnh vừa không làm ảnh hưởng lớn đến ta. Khi địch cử người lên kiểm tra kết quả, ta làm như không biết, để mặc cho chúng tự do hành động. “Chiến công” được ghi nhận, Sài Gòn điện báo Castor được trao tặng Huân chương Anh dũng bội tinh hạng Nhất”.
Bám chặt kế hoạch, cán bộ phản gián của ta dần lấy lại lòng tin của địch. Khi có đủ cơ sở tin tưởng Castor vẫn an toàn, địch bắt đầu thực hiện những chuyến tiếp tế hàng hóa thiết yếu và tăng cường biệt kích để triển khai các hành động. Các nhóm gián điệp, biệt kích: Europa, Atlas, Remus, Eros, Tourbillon... đổ bộ đều lần lượt bị ta đón lõng ngay khi vừa nhảy dù xuống hoặc sa lưới trên đường tìm cách thâm nhập vào nội địa.
Suốt nhiều năm, các chiến sĩ phản gián của ta đã nhập vai một cách thuần thục, thành công thực hiện ý đồ Chuyên án PY27 đã xác định. Ta đã khôn khéo sử dụng nghiệp vụ, đặc biệt là phương thức liên lạc vô tuyến điện, câu nhử địch tiến hành hàng chục chuyến tiếp tế hàng hóa (trong đó có nhiều phương tiện hoạt động gián điệp, biệt kích hiện đại) và tăng cường biệt kích. Chúng không biết điều gì đã xảy ra với các toán biệt kích cũng như mọi hoạt động của Trung tâm chỉ huy tại Sài Gòn đối với điệp viên không vận đều nằm trong sự kiểm soát của cơ quan an ninh Việt Nam.
Trong khi đó, toàn bộ phương tiện hoạt động gián điệp, biệt kích thu được, ta chuyển vào miền Nam để lực lượng an ninh tập kích vào các cơ quan của ngụy quân, ngụy quyền. Ngày 4-7-1967, ta quyết định cho Castor thực hiện phiên liên lạc cuối cùng, đến nửa chừng thì bỏ máy. Chuyên án PY27 kết thúc sau gần 6 năm đấu tranh. Tuy nhiên, cơ quan phản gián của ta tiếp tục thực hiện các chuyên án đấu tranh chống gián điệp, biệt kích khác cho đến năm 1973, bảo đảm bí mật tuyệt đối.