Lúc này, bộ đội ta đã được trang bị súng B41 do Liên Xô viện trợ, nhưng chỉ bắn được tối đa 500m. Trong tầm bắn đó, các cánh đuôi của đạn rất dễ vướng vào hàng rào của địch, làm chệch hướng bay và nổ trước khi đến mục tiêu.
Trước tình hình này, Bộ tư lệnh Đặc công đã đề nghị Tổng cục Hậu cần và Cục Vũ khí cải tiến súng B41 để có thể bắn xa hơn và bắn vượt qua hàng rào phòng ngự (lúc này, Cục Vũ khí nằm trong Tổng cục Hậu cần-PV). Tôi nhớ vào khoảng tháng 10-1968, một hôm, Đại úy Nguyễn Văn Toàn-Phó phòng Vũ khí mặt đất-gọi tôi vào phòng làm việc. Anh nói: Hôm qua, tôi và anh Lộc (Cục trưởng Cục Quân khí Nguyễn Quang Lộc) làm việc với đồng chí Trần Đại Nghĩa và các đồng chí ở Bộ tư lệnh Đặc công, các đồng chí yêu cầu ta nghiên cứu cải tiến phần kính ngắm quang học và bộ phận ngắm cơ khí của súng B41, nâng tầm bắn tối đa để bắn qua hàng rào phòng ngự của địch. Như để tôi hiểu rõ hơn, anh trao đổi với tôi những điều như đã nói ở trên, sau đó, anh bàn kế hoạch cụ thể và giao cho nhóm bộ binh thực hiện. Tôi được anh chỉ định chịu trách nhiệm chính với yêu cầu công việc phải tiến hành khẩn trương và giữ bí mật.
Kỹ sư Nguyễn Ngọc Doanh kể chuyện công tác.
Tôi thấy rất phấn khởi được cấp trên giao cho một công việc quan trọng nhưng cũng thấy lo lắng. Lúc đó, tôi chỉ là thiếu úy kỹ sư mới ra trường được một năm, tuy được trang bị kiến thức kỹ thuật quân sự nhưng về kinh nghiệm thì còn rất ít. Song, đây là yêu cầu do thực tế chiến trường đặt ra, lại được những lãnh đạo dày dạn kinh nghiệm ở tổng cục và cục chỉ đạo nên tôi có niềm tin có thể thực hiện được.
Bắt tay vào việc, chúng tôi gặp ngay khó khăn khi không hề có trong tay thiết kế nào về súng và đạn B41, chỉ có bộ tài liệu khai thác sử dụng bằng tiếng Nga tôi đang dịch và một tài liệu hướng dẫn sử dụng bằng tiếng Việt do Cục Quân huấn biên soạn (chủ yếu nặng về thao tác xạ kích). Ngày đó trong điều kiện chiến tranh, mọi người làm việc với tinh thần tập trung cao, lúc đó tôi chưa có gia đình riêng, tuy nhà ở Hà Nội nhưng ăn ở lại cơ quan. Tối nào cũng vậy, sau bữa cơm chiều, tôi lại vào phòng làm việc lấy cặp bảo mật rồi làm việc mãi đến đêm khuya. Với vốn tiếng Nga “ấm ớ” của những chàng sinh viên mới ra trường, tôi phải vất vả “đánh vật” với những trang sách tiếng Nga cần tham khảo, vừa dịch vừa tra cứu từ điển có khi cả tối chỉ được vài trang sách. Có đến mấy chủ nhật tôi không về nhà, mẹ tôi lo lắng cứ tưởng tôi đi công tác xa.
Cũng may, tôi tìm được một cuốn sách bằng tiếng Nga ở thư viện của cục nói về nguyên lý cấu tạo của các loại khí tài ngắm bắn của súng pháo. Tôi mừng quá, say sưa tìm hiểu và dần dần cũng vỡ vạc ra. Sau một thời gian, chúng tôi đã tìm ra được quy luật phân bố góc phóng ứng với từng tầm bắn của súng B41 (từ 100 đến 1.000m), rồi từ góc phóng lập công thức tính toán góc ngắm của bộ phận ngắm cơ khí và góc ngắm của kính quang học. Trên cơ sở đó thiết kế được bản vẽ thước ngắm cơ khí cải tiến đến cự ly 1.000m.
Lúc đó, Phòng Vũ khí mặt đất có anh Phì là trợ lý pháo mặt đất. Anh rất khéo tay, với tay nghề bậc 5 và những dụng cụ đơn giản như máy khoan, ê-tô, giũa, cưa… đã giúp tôi hoàn thành thước ngắm cơ khí cải tiến. Để kiểm tra lại việc tính toán thiết kế của mình, tôi đã lập ra bia kiểm tra, bia đặt ở cự ly 20m, bia có đầy đủ các thông số như bia hiệu chỉnh, trong đó có vẽ thêm các vạch ngang tương ứng với các tầm bắn từ 100-1.000m. Khi thực hành ngắm kiểm tra, tôi thấy các vạch ngang vẽ trên bia trùng khít với các vạch ngắm từ 100 đến 500m trên kính ngắm quang học. Điều đó làm tôi phấn khởi vì khẳng định phương pháp tính toán góc bắn là hợp lý và chính xác. Về phần kính ngắm quang học, khi đó có bàn đến việc thu hồi đưa về nhà máy Z123 để khắc thêm các vạch tương ứng từ 600 đến 1.000m. Song, xét thấy trong điều kiện chiến tranh lúc đó phương án này không khả thi. Qua việc kiểm tra bằng bia, tôi đã dùng đường cong đo cự ly (trong kính khắc vạch) để đánh dấu các điểm ngắm tương ứng với các cự ly. Như vậy là kính ngắm quang học không cần phải xử lý thêm, chỉ cần biên soạn tài liệu hướng dẫn cho bộ đội là có thể bắn ứng dụng với các tầm bắn vượt tầm.
Chiến sĩ bộ binh huấn luyện sử dụng súng B41. Ảnh: Phạm Tuấn
Chúng tôi tổ chức bắn thử ở Trường bắn Miếu Môn để kiểm tra tầm bắn từ 500 đến 1.000m với hai nội dung thước ngắm cơ khí và kính ngắm quang học. Tham gia bắn thử có đầy đủ các đồng chí trong nhóm vũ khí bộ binh lúc đó: Anh Lưu Hữu Tá, Lê Du Kiếm, Nguyễn Huấn, Đỗ Hữu Long và tôi (lúc đó, anh Trần Nhật là nhóm trưởng đang công tác ở chiến trường); các đồng chí ở Cục Quân huấn như anh Kha, anh Hùng và các xạ thủ của Trường bắn Miếu Môn như anh Vị, anh Đương...
Việc bắn thử có kết quả rất tốt, khẳng định cách tính toán là chính xác, tuy nhiên, các loại đạn do Liên Xô, Bungari, Rumani chế tạo có bộ phận tự hủy cho nên bắn ở cự ly 1.000m thì thấy hiện tượng đạn nổ trên không trước khi chạm bia, vì vậy, chúng tôi kết luận chỉ bắn được 950m, còn các loại đạn của các nước khác có thể bắn ở cự ly xa hơn (trên 1.000m). Ngoài ra, ở các cự ly xa, đường đạn bị ảnh hưởng nhiều vì gió cho nên để bảo đảm xác suất trúng đích cao chỉ nên sử dụng bắn vượt tầm trong điều kiện mục tiêu cố định, thời tiết tốt, gió ít. Sau khi bắn thử thành công, tôi đã biên soạn tài liệu hướng dẫn bắn ứng dụng, tài liệu thiết kế thước ngắm cơ khí. Những tài liệu này được gửi tới các cơ quan và đầu mối của bộ (cả đơn vị ở chiến trường B).
Tôi nhớ vào cuối năm 1968, trước khi Tổng cục Hậu cần tổ chức hội nghị cải tiến kỹ thuật toàn quân, một hôm, Thiếu tướng Trần Đại Nghĩa và Đại tướng Võ Nguyên Giáp xuống tham quan khu vực trưng bày mẫu của cục tại Hội trường C38, hôm đó tôi cũng vinh dự cùng các đồng chí khác được cục cử giới thiệu với đồng chí Đại tướng về kết quả công việc chúng tôi đã làm. Đại tướng biểu dương khen ngợi chung những sáng kiến cải tiến của Cục Vũ khí.
Sau này do điều kiện công việc, rất tiếc, tôi không được theo dõi đầy đủ kết quả sử dụng của bộ đội ở chiến trường. Một lần tôi gặp được anh Kha ở Cục Quân huấn, tìm hiểu về việc này, anh nói: Cục Quân huấn cử một số xạ thủ vào chiến trường để hướng dẫn cho bộ đội, kết quả sử dụng tốt. Sau này, kẻ địch lại đối phó bằng cách thay vì hàng rào nhiều lớp như trước đây, chúng đã dùng lưới mắt cáo mà ngày nay ta thường gọi là lưới chống B40 và chỉ rào một vài lớp nhưng với chiều cao lớn hơn từ 4m đến 5m. Tuy nhiên, do điều kiện địa hình không phải ở đâu và khi nào kẻ địch cũng có thể rào kín được, cho nên vẫn có cơ hội để bộ đội ta sử dụng súng B41 bắn vượt tầm.
Khi đã nghỉ hưu, có dịp gặp gỡ bạn bè, tôi được anh bạn cũ là Đại tá Đỗ Đình Quảng, công tác tại Bộ tư lệnh Pháo binh, có thời kỳ chiến đấu ở Tây Nguyên, kể: Trong trận đánh ở Đắc Tô, chính mắt anh đã chứng kiến một chiến sĩ ta dùng súng B41 bắn cháy 1 xe tăng địch ở cự ly 900m...
NGUYỄN NGỌC DOANH