Cuộc “chuyển quân” từ chiến khu về nội thành
Tư liệu được TS Phan Thu Nga và anh Phan Thanh Dũng cung cấp cho chúng tôi là những trang nhật ký của đồng chí Phan Kiệm (có các bí danh: Đào Tấn Xuân, Năm Thành, Năm Vân...), nguyên Quyền Tư lệnh kiêm Chính ủy Đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn; nguyên Phó bí thư Khu ủy Sài Gòn - Chợ Lớn và bà Dương Kim Bằng. Hai ông bà là song thân của TS Phan Thu Nga và anh Phan Thanh Dũng. Chắp nối những trang nhật ký, những bức thư thời chiến của ông bà kết hợp với một số tư liệu, trao đổi với nhân chứng, chúng tôi đã hình dung được phần nào hoàn cảnh lịch sử, tình hình cách mạng và tầm nhìn chiến lược của Đảng đối với cách mạng miền Nam, trọng tâm là ở đô thị Sài Gòn - Chợ Lớn đầu những năm 50 của thế kỷ 20...
Vào năm 1950, khí thế kháng chiến chống thực dân Pháp phát triển rộng khắp tại các địa phương Nam Bộ. Đặc biệt, tại Sài Gòn - Chợ Lớn, phong trào kháng chiến phát triển mạnh, với nhiều thành phần, lực lượng tham gia. Tuy nhiên, chỉ được một thời gian ngắn, do tư tưởng chủ quan, sớm bộc lộ ý đồ và lực lượng nên nhiều tổ chức, cơ sở cách mạng bị bại lộ, hàng loạt cán bộ bị địch bắt. Để đàn áp phong trào cách mạng, thực dân Pháp liên tục tăng cường chi viện lực lượng, nâng tổng số quân Pháp ở Sài Gòn - Chợ Lớn vào cuối năm 1950 lên đến hơn 14.000 tên. Bộ máy cảnh sát, mật vụ cũng được bổ sung, tăng cường lên đến gần 80.000 tên. Tính trung bình, cứ khoảng 20 người dân có 1 cảnh sát.
Đối phó với tình hình khó khăn, không để khí thế kháng chiến giảm sút, tháng 8-1950, Xứ ủy Nam Bộ quyết định thành lập Đặc khu Sài Gòn-Chợ Lớn. Đặc khu bao gồm thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn và một phần các huyện: Thủ Đức, Gò Vấp, Nhà Bè, Trung Huyện... thuộc tỉnh Gia Định, Chợ Lớn.
Theo sự phân công của Xứ ủy, đồng chí Phạm Ngọc Thạch đảm nhiệm cương vị Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Hành chính Đặc khu; đồng chí Nguyễn Văn Linh (Mười Cúc) là Bí thư Đặc khu ủy; đồng chí Trần Quốc Thảo, Phó bí thư. Các ủy viên Đặc khu ủy, gồm: Đào Tấn Xuân, Nguyễn Thọ Chân, Đoàn Văn Bơ, Huỳnh Tấn Phát... LLVT Đặc khu cũng được kiện toàn, bao gồm hệ thống dân quân, du kích thuộc Thành đội, Tiểu đoàn Quyết tử 950, các đội biệt động và cơ quan Thành đội bộ dân quân. Bộ tư lệnh Đặc khu do đồng chí Nguyễn Văn Thi (Năm Thi) làm Tư lệnh; đồng chí Nguyễn Văn Linh làm Chính ủy. Phó tư lệnh gồm các đồng chí: Đào Tấn Xuân (phụ trách quân sự), Nguyễn Hộ. Đồng chí Trần Lương là Tham mưu trưởng. Nhiều đồng chí trong thành phần lãnh đạo chủ chốt của Đặc khu ủy Sài Gòn - Chợ Lớn được điều động từ Khu 7 (Chiến khu Đ) về nội thành. Đây là cuộc “chuyển quân” có ý nghĩa hết sức quan trọng, tạo chuyển biến tình hình cách mạng ở Sài Gòn - Chợ Lớn.
Trong di cảo để lại, đồng chí Đào Tấn Xuân có ghi: “Tôi có nhiều năm đảm nhiệm cương vị Trưởng ban Dân quân Khu 7, thực hiện nhiệm vụ xây dựng, phát triển LLVT địa phương, chỉ huy các lực lượng dân quân, du kích trong vùng chiến khu. Đặc khu ủy Sài Gòn-Chợ Lớn hy vọng với kinh nghiệm dày dạn của tôi sẽ tham mưu, phát triển lực lượng, chỉ huy mạng lưới dân quân, du kích, biệt động... để chiến đấu trong lòng địch”.
Trước ngày rời Chiến khu Đ, đồng chí Huỳnh Văn Nghệ (Tám Nghệ), Phó tư lệnh Khu 7 nói với Đào Tấn Xuân: “Việc điều động anh về tăng cường sức mạnh lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức hoạt động quân sự ở Sài Gòn-Chợ Lớn là quyết định rất đúng đắn của Xứ ủy. Mặc dù Khu 7 đang rất cần anh nhưng vì nhiệm vụ chung, tôi ủng hộ quyết định của Xứ ủy...”.
Những ngày “nước sôi lửa bỏng”
Sinh thời, Thiếu tướng tình báo Nguyễn Văn Khiêm (Sáu Trí) đã kể cho chúng tôi nghe về ký ức những năm tháng hoạt động trong lòng địch. Ông gọi đây là những ngày “nước sôi lửa bỏng” ở Đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn. Thực dân Pháp xác định Sài Gòn-Chợ Lớn là trọng điểm của các chiến dịch truy lùng, tấn công, nhằm vô hiệu hóa phong trào cách mạng. Chính vì vậy, địch ngày càng tăng cường sức mạnh quân sự, đánh mạnh vào các cơ sở cách mạng của ta. Bên cạnh trấn áp bằng vũ trang, địch triệt để khai thác, lợi dụng những phần tử phản bội, đầu hàng, phát triển mạng lưới mật thám, chỉ điểm để truy lùng các cán bộ chủ chốt của ta. Nhiều cơ sở cách mạng bị lộ. Đến cuối năm 1951, đã có hơn 60 cán bộ các cấp thuộc Đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn bị địch bắt và sát hại. Tổn thất lớn nhất là đồng chí Năm Thi, Tư lệnh Đặc khu bị địch bắt. Sau đó, đồng chí Đào Tấn Xuân được Đặc khu ủy giao nhiệm vụ Quyền Tư lệnh kiêm Chính ủy Đặc khu.
    |
 |
Quân và dân Sài Gòn lập phòng tuyến chặn đánh địch trong kháng chiến chống thực dân Pháp. Ảnh tư liệu
|
Di cảo của cụ Đào Tấn Xuân có nội dung kể lại tình huống “ngàn cân treo sợi tóc”. Đó là, trong một lần trên đường đi công tác, Đào Tấn Xuân (lúc bấy giờ lấy bí danh là Năm Thành) bị chỉ điểm. Cảnh sát Sài Gòn truy đuổi rất rát. Năm Thành bị kẹt giữa lòng cầu Kiệu (nay thuộc quận Phú Nhuận), hai bên cầu đều có lính Pháp bao vây. Đúng lúc tụi lính Pháp ập đến thì Năm Thành bật lên thành cầu, nhảy ùm xuống kênh thoát nạn.
Tháng 12-1951, Thường vụ Đặc khu ủy tổ chức hội nghị, thống nhất các phương án bảo đảm bí mật. Toàn bộ cơ quan Đặc khu ủy và cơ quan quân sự Đặc khu được chia thành 3 bộ phận (gọi là các ban cán sự), bố trí trên 3 hướng xung quanh thành phố. Năm Thành chỉ đạo Ban cán sự 1 đảm nhiệm hướng Bắc, đặt căn cứ tại Vịnh Sao, sông Vàm Cỏ Tây. Ban cán sự 2 phụ trách hướng Đông-Nam, do đồng chí Nguyễn Hộ chỉ đạo, đặt căn cứ tại Rừng Sác. Hướng Tây là Ban cán sự 3 do đồng chí Trần Quốc Thảo chỉ đạo, đặt căn cứ bên sông Vàm Cỏ Đông. Việc phân chia tổ chức như vậy nhằm bảo đảm cho hoạt động tác chiến ở từng khu vực chủ động, đồng thời có thể chi viện, thay thế lẫn nhau trong trường hợp căn cứ bị lộ.
Bước vào năm 1952, do liên tục thua đau trên chiến trường Bắc Bộ, thực dân Pháp tập trung củng cố sức mạnh ở Nam Bộ, trọng tâm là Sài Gòn-Chợ Lớn. Địch đẩy mạnh củng cố vùng tạm chiếm, đánh phá mạnh, ráo riết thực hiện kế hoạch: “Lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt”. Được sự hỗ trợ của Mỹ, đầu năm 1952, Pháp bố trí tại Sài Gòn - Chợ Lớn lực lượng hùng mạnh lên đến gần 42.000 lính, cùng với hơn 21.000 lính Âu-Phi. Bên cạnh đó, Mỹ còn trực tiếp viện trợ, tăng ngụy quân, phát triển ngụy quyền...
Thực hiện chỉ đạo của đồng chí Lê Duẩn, Bí thư Trung ương Cục miền Nam về việc triển khai các giải pháp kiềm chế giặc, mở rộng khu du kích, mở rộng vùng tự do, bảo vệ an toàn các căn cứ, tạo thế và lực cho mặt trận ở miền Bắc, Đặc khu ủy đã triển khai phong trào theo hướng đẩy mạnh công tác dân vận, xây dựng LLVT và bán vũ trang, tổ chức các trận đánh biệt động; tăng cường phòng gian, bảo mật, chống bắt lính...
Để tạo tiếng vang, Bộ tư lệnh Đặc khu chỉ đạo các đơn vị biệt động tiến hành các trận đánh táo bạo với chiến thuật đánh gần, đánh đêm. Các trận tập kích bất ngờ vào Chi khu Cần Giờ, đánh tàu chở hàng Klataken trên sông Soài Rạp, đốt cháy kho bom An Hội, đột kích phá hủy kho xăng dầu và kho đạn Phú Thọ Hòa; tập kích câu lạc bộ không quân Pháp... của các đơn vị biệt động gây cho địch những thất bại nặng nề.
Cùng với các trận đánh “vỗ mặt” thực dân Pháp, việc diệt ác, trừ gian cũng được triển khai quyết liệt. Để lần tìm những “con cá bự” trong đám Việt gian, thám báo, chỉ điểm... Thường vụ Đặc khu ủy quyết định cài người vào nội bộ địch hoạt động tình báo. Đồng chí Nguyễn Văn Khiêm (Sáu Trí) là người đầu tiên được Thường vụ Đặc khu ủy “chọn mặt gửi vàng”, rời căn cứ trở về Sài Gòn, móc nối với người quen trong Nha Công an Nam Phần, xin vào làm nhân viên tại Nha Công an với bộ hồ sơ giả mang tên Phạm Duy Hoàng...
Những ngày tháng “nước sôi lửa bỏng” tổ chức phong trào cách mạng trong lòng Đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn đã thúc đẩy khí thế kháng chiến chống thực dân Pháp trên toàn Nam Bộ, tạo thế và lực cho mặt trận chính ở miền Bắc, đưa cuộc kháng chiến đi đến thắng lợi cuối cùng, đỉnh cao là Chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954...
MINH BẢO