Trong cuộc đời binh nghiệp, Thiếu tướng Nguyễn Hiền đã tham gia nhiều chiến dịch lớn của cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, cứu nước. Cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc nổ ra, ông được Bộ Quốc phòng điều làm Phó tư lệnh về chính trị Quân đoàn 14-Binh đoàn Chi Lăng, cùng nhân dân các dân tộc tỉnh Lạng Sơn chiến đấu, xây dựng tuyến phòng thủ, bảo vệ vững chắc chủ quyền biên giới quốc gia. Đến năm 1992, sau 46 năm cầm súng, ông được Đảng, Nhà nước, quân đội cho nghỉ hưu. Trải qua 3 cuộc chiến tranh, từ chiến sĩ đến sĩ quan cấp tướng, bất kỳ ở đâu, dù trong hoàn cảnh nào, ông cũng luôn khắc phục khó khăn, phấn đấu hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao phó.

Sáu lần vinh dự được gặp Bác Hồ

Thiếu tướng Nguyễn Hiền rưng rưng xúc động kể lại kỷ niệm 6 lần vinh dự được gặp Bác Hồ-những dấu ấn đậm nét nhất trong cuộc đời ông. Lần đầu tiên gặp Bác trong Chiến dịch Cao-Bắc-Lạng năm 1949. Giữa lúc đơn vị đang dừng nghỉ trên đường hành quân về thị xã Cao Bằng thì từ xa có một đoàn người đi tới, trong đó có một ông cụ mặc quân phục, chân đi dép cao su, đầu đội mũ lá cọ, tay chống gậy trúc, chiếc túi đeo bên sườn, khăn vắt vai... Cả đơn vị không ai bảo ai, tất cả đều nhất loạt đứng lên những mong được nhìn thấy Bác rõ hơn. Bác tươi cười nhìn từng cán bộ, chiến sĩ và tỏ ý khen ngợi bộ đội ta đánh giỏi thắng lớn. Đặc biệt, trong chiến dịch này, Nguyễn Hiền hai lần vinh dự được Bác Hồ trực tiếp gọi điện biểu dương khen ngợi tinh thần chiến đấu dũng cảm của cán bộ, chiến sĩ đơn vị ông. Lần thứ hai, Bác đến thăm đơn vị khi Chiến dịch Hòa Bình kết thúc (năm 1952). Và từ lần đó, Thiếu tướng Nguyễn Hiền không bao giờ quên lời dạy của Bác: “Thắng không được kiêu, bại không được nản, chủ quan khinh địch là nguyên nhân chính của sự không thành công và hao tổn xương máu của chiến sĩ”.

leftcenterrightdel
Thiếu tướng Nguyễn Hiền và Đại tướng Võ Nguyên Giáp, năm 2000. Ảnh: NGÔ VĂN

Lần thứ ba, ông và đơn vị được gặp Bác ở Đại Từ, Thái Nguyên. Đặc biệt lần thứ tư là trước khi vào tiếp quản Thủ đô Hà Nội. Đúng 10 giờ ngày 19-9-1954, Đại đoàn Quân Tiên Phong của ông vinh dự được gặp Bác tại Đền Giếng, Đền Hùng (nay thuộc TP Việt Trì, tỉnh Phú Thọ). Tại đây, Người ân cần căn dặn cán bộ, chiến sĩ: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Tiếp đó, cuối năm 1957, Bác và Đại tướng, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp ra tận thao trường thăm Trung đoàn 88 diễn tập hiệp đồng binh chủng ở Hòa Lạc, Sơn Tây. Lúc này, Nguyễn Hiền đang là Phó chủ nhiệm chính trị Trung đoàn 88. Lần thứ sáu, mùa khô năm 1958, đơn vị ông tham gia giúp dân chống hạn ở huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông (nay thuộc Hà Nội). Bác ra tận cánh đồng tát nước cùng bà con nông dân và cán bộ, chiến sĩ.

Những lời Bác dạy theo suốt cuộc đời Thiếu tướng Nguyễn Hiền, đã giúp ông hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong các cuộc chiến đấu ác liệt, góp phần vào chiến thắng vĩ đại của dân tộc.

Tướng học làm dân

Được làm lính của ông, tôi hiểu rõ tướng Hiền là con người tương đối đặc biệt. Khi tiếp xúc với bất kỳ ai, kể cả cấp dưới, ông không bao giờ tạo ra khoảng cách và không ai có cảm giác là mình đang nói chuyện với một vị tướng mà chỉ thấy sự chan hòa, cởi mở, chân tình, dễ gần mà lại khó quên. Khi đã nghỉ hưu, có lần ông tâm sự với tôi: “Chỉ đến khi “cởi áo từ quan” mới biết rõ mình là ai, thế nên dẫu là tướng cũng phải học làm một người dân bình thường trước đã”.

Ông Nguyễn Văn Toại, người cùng quê làng Dòng (xã Xuân Lũng, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ) với Thiếu tướng Nguyễn Hiền kể lại, gia đình tướng Hiền và gia đình ông vốn là láng giềng suốt nhiều thập kỷ cho tới khi tướng Hiền đưa vợ con về định cư ở phường Nông Trang, TP Việt Trì. Bà Đào Thị Tiến, người bạn đời thủy chung của Thiếu tướng Nguyễn Hiền có họ hàng bên ngoại với mẹ ông Toại và coi mẹ ông Toại như người chị lớn trong nhà. Với cha ông Toại, tướng Hiền luôn nhắc đến với một tình cảm trìu mến và trân trọng. Ông Toại nhớ lại câu chuyện cha mình kể: Trong đám cưới cha mẹ ông hồi giữa những năm 30 của thế kỷ trước, tướng Hiền cùng mấy người bạn cùng xóm đã chơi trò “giăng dây, đón bẹ”, chắn đường nhà trai rước dâu vào xóm Chi Huy đòi mấy chinh-một nét đẹp văn hóa thời ấy, bởi cả người mừng và người nhận đều được hưởng phước lành...

Cũng theo ông Nguyễn Văn Toại, tướng Hiền vào đời mang theo hành trang là tinh thần hiếu học và dòng máu yêu nước của gia đình, cùng với không gian văn hóa của làng quê văn hiến ở trung du. Điều đó đã ảnh hưởng sâu sắc đến nhãn quan chính trị của ông. Tướng Hiền là người sống nội tâm, làm việc gì cũng hết mình, coi việc giúp người là niềm vui, hạnh phúc. Gần 20 năm nghỉ hưu cũng là chừng ấy năm ông lăn lộn công tác ở Hội Cựu chiến binh tỉnh Phú Thọ trên cương vị Chủ tịch. Dù ở đâu và giữ cương vị nào, ông cũng luôn phát huy cao nhất phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ... Đó cũng là quãng thời gian ông làm được biết bao việc nghĩa. Ông đã cùng đồng đội xác định được nơi yên nghỉ của liệt sĩ Vũ Văn Trang, hy sinh trong trận đánh quân Pháp ở núi Đanh (Vĩnh Phúc) mà gia đình liệt sĩ đã cất công tìm kiếm suốt từ năm 1997. Cũng không ai ngờ rằng, chiếc xe ZIL 3 cầu đi ròng rã 5 ngày đêm từ Việt Trì vào đến bản Pa Tầng (Quảng Trị) để tìm mộ liệt sĩ Trần Văn Tú, chiến sĩ thông tin, quê Phú Nham (Phù Ninh, Phú Thọ) hy sinh năm 1968 ở Mặt trận Khe Sanh mà người dẫn đầu cuộc hành trình là ông Chủ tịch Hội Cựu chiến binh tỉnh Phú Thọ đã bước sang độ tuổi thất thập. Các con bà quả phụ Nguyễn Thị Tâm, vợ liệt sĩ Vũ Văn Trang coi tướng Hiền như cha mình...

Dạo này người ta vẫn thấy Thiếu tướng Nguyễn Hiền thường thuê xe ôm về làng Dòng, tham gia với lãnh đạo địa phương nhiều chuyện, trong đó có vấn đề phục dựng lại ngôi đình Cả. Tiếng nói của ông thường được đặt đúng lúc, đúng chỗ, vì vậy mà thêm trọng lượng với dân, với làng. Ông thật sự không yên tâm khi thấy chùa chiền, miếu mạo... được xây dựng hơi nhiều, trong khi đó, các di tích lịch sử cách mạng thì dường như chưa được quan tâm đúng mức. Bản thân ông cùng các cựu chiến binh đã tích cực vận động xã hội hóa, tham gia xây dựng các công trình di tích lịch sử cách mạng nhằm “tiếp lửa truyền thống” cho thế hệ trẻ hôm nay và mai sau.

NGÔ VĂN HỌC