Mùa Xuân năm 1968, đồng chí Đoàn Chương là Phó cục trưởng Cục Chính trị Quân chủng Phòng không-Không quân. Khi đang chuẩn bị vào miền Nam chiến đấu trong đội hình Sư đoàn 377, ông nhận được lệnh triệu tập của Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Phạm Ngọc Mậu. Ông nhớ lại: “Hôm ấy, theo đúng thời gian triệu tập, tôi có mặt ở phòng chờ cùng 2 đồng chí khác. Khi chúng tôi đang ngơ ngác chưa biết chuyện gì thì đồng chí Phạm Ngọc Mậu thông báo ngay: “Bộ Chính trị cử anh Lê Đức Thọ làm cố vấn đặc biệt cho phái đoàn đàm phán của Chính phủ ta tại Hội nghị Paris. Anh Lê Đức Thọ cần một số cán bộ biết tiếng Pháp, tiếng Anh để giúp việc. Anh Thọ chấm 3 cậu làm chuyên viên quân sự. Anh Thọ biết Đoàn Chương từ hồi làm thư ký của anh Nguyễn Chí Thanh nên cử làm tổ trưởng”.
Sau khi được quán triệt những quy định khi đi công tác nước ngoài và nhận bí danh, các đồng chí của ta sang Ban Tổ chức Trung ương nhận nhiệm vụ. Theo kế hoạch, cố vấn Lê Đức Thọ sang Pháp trước. Đoàn đi sau gồm 8 người, trong đó có 3 cán bộ Quân đội ta. Do phải quá cảnh qua nhiều quốc gia nên trên đường đến Paris, đồng chí Đoàn Chương và các thành viên của đoàn có nhiều kỷ niệm thú vị.
Ông cho biết: “Khi chúng tôi xuống sân bay Brussels (Bỉ), cả Đại sứ quán Liên Xô tại Bỉ ra đón. Điều này gây sự chú ý và tò mò của người dân lẫn nhân viên sân bay. Họ đổ ra xem “người Việt Nam dám đánh Mỹ”. Từ Bỉ sang Pháp, chúng tôi đi trên 2 xe đều có biển số mang ký hiệu ngoại giao đoàn nhưng không có cờ cũng gây sự chú ý đối với các phương tiện qua lại trên xa lộ. Nhiều xe vượt qua xe chúng tôi rồi, nhưng khi biết là đoàn ngoại giao Việt Nam thì đi chậm lại. Họ nhường cho xe chúng tôi đi trước rồi nối đuôi theo sau, cùng dừng lại giải khát ở các cây xăng bố trí cách nhau 50km. Ở đây, bạn bè quốc tế bắt tay chào mừng, xin chữ ký, chụp ảnh... Cảm động nhất là có một chị ở Quebec (Canada) ôm cô Nga (nhân viên teletip của đoàn) vào lòng và khóc. Chị còn lấy trong túi ra tờ báo Canada in ảnh một hầm trú ẩn có trồng hoa bên cạnh, rồi hết lời ca ngợi cuộc chiến đấu chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta. Xem kỹ bức ảnh, tôi nhận ra đó là dãy hầm phòng không ở vườn hoa Hàng Đậu, Hà Nội”.
|
|
Gia đình Trung tướng Đoàn Chương. Ảnh chụp lại
|
Sau gần một tuần di chuyển, đoàn đặt chân đến Paris. Từ đây, đồng chí Đoàn Chương chính thức trở thành cán bộ ngoại giao, làm việc tại trụ sở phái đoàn đàm phán của ta đóng ở Trường Đảng Trung ương của Đảng Cộng sản Pháp. Ngoài đồng chí Lê Đức Thọ, các đồng chí: Xuân Thủy, Hà Văn Lâu, Phan Hiền, Nguyễn Thành Lê... đều là những người quen biết với ông từ thời kháng chiến chống thực dân Pháp. Chính vì vậy, quá trình làm việc, tất cả thành viên trong đoàn đã có sự phối hợp khá đồng bộ, hiệu quả.
Bấy giờ, tổ chuyên viên quân sự do ông phụ trách và tổ chuyên viên chính trị do đồng chí Phan Hiền phụ trách hợp thành bộ phận phương án, trực tiếp làm việc với cố vấn Lê Đức Thọ. Theo lời kể của Trung tướng Đoàn Chương, những ngày ấy, bộ phận phương án mỗi khi họp thường phải vào buồng mật cách âm do lực lượng công an thiết kế một cách đặc biệt để chống nghe trộm. Nhưng phần vì có bệnh huyết áp cao, họp ở phòng kín một hồi rất khó chịu, phần vì tính cách phóng khoáng nên đồng chí Lê Đức Thọ hay bố trí “họp dã ngoại”. Ông hay lệnh cho mọi người nay dừng nơi này, mai thay nơi khác để họp chớp nhoáng, tránh tai mắt tình báo địch. “Tôi nhớ, khi gặp giao nhiệm vụ và động viên chúng tôi, anh Sáu Thọ (Lê Đức Thọ) nói đại ý: Tớ cũng như các cậu, đều là tân binh ngoại giao. Đánh Mỹ trên chiến trường đã khó, đấu với Mỹ trên bàn đàm phán chắc cũng không dễ. Phải vừa làm, vừa rút kinh nghiệm, học hỏi. Ở đây xa Trung ương nên tập thể phải bàn bạc cho kỹ và chủ động nghiên cứu đề xuất. Đồng thời anh cũng không quên nhắc nhở mọi người phải thường xuyên nắm chắc tình hình chiến sự và báo cáo kịp thời. Trong ngoại giao, đánh thắng trận đầu cũng rất quan trọng.
Trên bàn thương lượng tại Hội nghị Paris đã diễn ra đúng như kế sách “vừa đánh, vừa đàm” mà Nghị quyết Trung ương 13 của Đảng ta đề ra. Trong giai đoạn đầu, cả hai bên đều tranh thủ tuyên truyền lập trường của mình và tìm hiểu đối phương.
Ta nhất mực hai điểm: Một là, nguồn gốc sâu xa và nguyên nhân trực tiếp của chiến tranh Việt Nam là từ chính sách xâm lược thực dân kiểu mới của đế quốc Mỹ. Hai là, chấm dứt ném bom vô điều kiện, sau đó sẽ bàn các việc có liên quan. Đối lại, Mỹ cho rằng miền Bắc xâm lược miền Nam và đòi “có đi có lại”. Harriman-Trưởng đoàn đàm phán của Mỹ trong giai đoạn đầu, có lúc nói đại ý: Tôi đã làm ngoại giao 40 năm, từng là nhân vật số 2 tại Hội nghị Yalta đàm phán với Stalin. Stalin rất cứng rắn nhưng vẫn có đi có lại. Các ông còn cứng rắn hơn, trước sau các ông chỉ một mực: Chấm dứt ném bom không điều kiện, sau đó sẽ bàn các việc có liên quan.
Có hôm Harriman gợi ý khéo muốn “có cái gì đó” để gây thiện cảm với Tổng thống Mỹ. Theo sự chỉ đạo của anh Thọ, đoàn thảo luận và đề nghị về nhà cho thả một số tù binh nhân dịp Quốc khánh Mỹ, nhưng tránh để họ bị các nhà chức trách Mỹ giữ lại không cho về gia đình như những lần trước. Sau khi ở nhà chấp thuận, đoàn ta bắn tiếng cho Đại sứ quán Liên Xô tại Pháp để họ thông tin cho phái đoàn Mỹ.
Sáng hôm sau, đến phiên họp thường lệ, Harriman nấn ná dò hỏi xem “phải chăng có cọng rơm trong gió”. Lúc này, ta mới công khai cho biết sẽ thả 3 tù binh nhân dịp Quốc khánh Mỹ. Ta cũng cho biết sẽ mời đại biểu phong trào hòa bình Mỹ đến nhận để bảo đảm cho tù binh được trở về đoàn tụ với gia đình. Sau khi báo cáo “lập công” với Tổng thống Mỹ, ông ta thông báo lại: Để thể hiện lập trường “có đi có lại”, Mỹ sẽ thả 12 lính hải quân Việt Nam “đã vi phạm vùng biển phi quân sự”, đồng chí Đoàn Chương kể.
Qua một thời gian tìm hiểu lẫn nhau, để các cuộc nói chuyện đi vào thực chất, ta bắt đầu có những cuộc tiếp xúc mật nhằm tạo ra đột phá, từ tiếp xúc cấp phó đoàn và chuyên viên để thăm dò rồi chuẩn bị tiến lên tiếp xúc cấp trưởng đoàn. Trong câu chuyện với chúng tôi, Trung tướng Đoàn Chương vẫn nhớ như in những cuộc thảo luận của hội đồng tham mưu, chuẩn bị cho cuộc tiếp xúc cấp trưởng đoàn đầu tiên. Đồng chí Lê Đức Thọ kết luận và nhấn mạnh lập trường của ta trước sau như một là độc lập, tự chủ. Theo kết luận ấy, bộ phận tham mưu, tổ phương án và cả trưởng đoàn cùng chuẩn bị, không kể ngày đêm. Đến cuộc gặp, cố vấn Lê Đức Thọ trình bày một mạch, vừa cứng rắn, vừa mềm mỏng. Đối phương tuy có bình luận ít nhiều nhưng chủ yếu là lắng nghe và yêu cầu họp kín một tuần nhiều lần.
Tiếp đó, qua các cuộc tiếp xúc mật, khi ở bên ta, khi ở bên phía Mỹ, các cuộc tranh luận, mặc cả để đi đến thỏa thuận chung là Mỹ chấm dứt ném bom, họp 4 bên, có cả Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và chính quyền ngụy Sài Gòn. Đây là giai đoạn khá gay cấn.
Tuy Mỹ bị bức bách với cuộc bầu cử tổng thống sắp tới nhưng thực tế chiến trường sau Tết Mậu Thân, ta không thực hiện được kế hoạch, tương quan lực lượng không cho phép ta ép hơn nữa, rất dễ “già néo đứt dây”. Từ Paris, đồng chí Đoàn Chương được lệnh về nước, báo cáo xin ý kiến Bộ Chính trị.
Nhớ lại sự kiện này, ông kể: “Tôi bay về Bắc Kinh thì gặp trục trặc, phải đi tàu hỏa về Hà Nội. Về đến Hà Nội, tôi khẩn trương đến gặp anh Nguyễn Duy Trinh báo cáo thì được biết anh Thọ cũng vừa về tới và đã báo cáo Bộ Chính trị. Mừng quá, tôi đến gặp anh Thọ thì được cho biết Bộ Chính trị chấp thuận ý kiến của đoàn và đã có điện sang bên kia cho đồng chí Xuân Thủy. Không bỏ lỡ thời cơ, các phiên đàm phán tiếp theo, chúng ta đều đạt được ý định của mình. Ngoại giao ta đã “mở được đột phá khẩu”, buộc Mỹ tuyên bố chấm dứt ném bom, đồng ý họp 4 bên từ ngày 25-1-1969”.
VĂN TÁM