Khi tham gia Hội nghị Geneva năm 1954 về Đông Dương, chúng ta có sơ suất là không tổ chức nghiên cứu chiến lược nên việc tham gia hội nghị có những hạn chế nhất định. Có khó khăn khách quan là chúng ta phải tập trung mọi nguồn lực cho mặt trận quân sự, nhất là Chiến dịch Điện Biên Phủ; đội ngũ cán bộ ngoại giao còn rất mỏng; điều kiện tìm kiếm thông tin và tổ chức nghiên cứu còn hạn chế...
Rút kinh nghiệm từ Hội nghị Geneva nên trong đàm phán Việt-Mỹ tại Paris về chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam, chúng ta đã coi trọng công tác nghiên cứu chiến lược và đã xây dựng được cơ quan nghiên cứu chiến lược khá hiệu quả, phục vụ ý định vừa đánh vừa đàm. Từ năm 1965, theo chỉ đạo của trên, Bộ Ngoại giao đã thành lập Tiểu ban Việt Nam có nhiệm vụ nghiên cứu ngoại giao chống Mỹ. Chính Tiểu ban này đã đóng góp tích cực cho việc xây dựng Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 13, khóa III (ngày 26-1-1967). Nghị quyết Trung ương 13 khởi đầu cho chiến lược vừa đánh vừa đàm của ta. Nghị quyết xác định: Ta cần có phương pháp và hình thức thích hợp để tiến công địch và phải mở đường buộc địch đi vào thương lượng theo hướng có lợi nhất cho ta. Làm như thế nào là vấn đề lớn, quan trọng mà Tiểu ban Việt Nam phải suy nghĩ.
Cuối năm 1967, Tiểu ban Việt Nam được tăng cường nhân sự và đổi tên là Vụ II. Khi đó, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch phụ trách, đồng chí Phan Hiền làm Vụ trưởng Vụ II. Đây là một cơ quan đặc biệt, có nhiệm vụ nghiên cứu các phương án đấu tranh ngoại giao tham mưu giúp Bộ Chính trị chỉ đạo đàm phán ở Hội nghị Paris. Đầu năm 1971, Vụ II được đổi tên thành CP-50 và trực thuộc Bộ Chính trị, phục vụ đàm phán tại Paris, do đồng chí Nguyễn Duy Trinh, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao lãnh đạo.
|
|
Bộ trưởng Ngoại giao Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa Nguyễn Duy Trinh ký Hiệp định Paris ngày 27-1-1973. Ảnh tư liệu |
Sau khi Tiểu ban Việt Nam đổi tên thành Vụ II, gồm hai tổ: Tổ giải pháp và Tổ bước đi. ông Võ Văn Sung, Đại sứ đầu tiên của Việt Nam Dân chủ cộng hòa tại Pháp, thành viên chính thức phái đoàn Việt Nam Dân chủ cộng hòa trong Lễ ký kết Hiệp định Paris ngày 27-1-1973, cho hay: “Tổ giải pháp do anh Đinh Nho Liêm làm Tổ trưởng. Nhiệm vụ của tổ này là chuẩn bị các kịch bản từ cao đến thấp, có thể sử dụng vào thời điểm ký kết hiệp định tùy so sánh lực lượng lúc ấy. Tôi là Tổ trưởng Tổ bước đi, chịu trách nhiệm nghiên cứu lộ trình kết hợp đàm phán ngoại giao với các bước đấu tranh quân sự trên chiến trường”...
Lịch sử ngoại giao Việt Nam và ngoại giao thế giới chưa hề có kinh nghiệm vừa đánh vừa đàm theo kiểu này. Tổ giải pháp nghiên cứu các kịch bản mà hai bên có thể chấp nhận được. Ngoài đề xuất các kịch bản, Tổ giải pháp còn đảm nhiệm vấn đề tù binh, người mất tích, vấn đề bồi thường chiến tranh... Tổ bước đi có nhiệm vụ nghiên cứu lộ trình đi đến giải pháp cuối cùng.
Theo đó, về sản phẩm chiến lược, chúng ta có Giải pháp hòa bình 10 điểm của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (ngày 8-5-1969); Sáng kiến hòa bình 8 điểm của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam (ngày 14-9-1970); Sáng kiến hòa bình 9 điểm của Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa (ngày 26-6-1971); nội dung 2 điểm nói rõ thêm của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam (ngày 2-2-1972). Đặc biệt là dự thảo Hiệp định về chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam mà chúng ta trao cho đoàn Mỹ tại cuộc gặp riêng ngày 8-10-1972...
Ngoài các sản phẩm trên, Tiểu ban Việt Nam-Vụ II (CP-50) còn có các sản phẩm: Tuyên bố ngày 10-12-1970 về thời hạn rút quân Mỹ khỏi miền Nam Việt Nam; sáng kiến 7 điểm của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ngày 1-7-1971... Cùng với đó, những vấn đề lớn khác đã được Tiểu ban Việt Nam nghiêm túc nghiên cứu và đề xuất giải pháp xử lý, như vấn đề “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào” mà Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện trong thơ chúc Tết năm 1969 là hai giai đoạn hay cùng một lúc; vấn đề Mỹ đòi hai bên cùng rút quân...
Như vậy, CP-50 chính là “nhóm nghiên cứu chiến lược” đầu tiên về ngoại giao của nước ta và đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình. Hiệp định Paris về Việt Nam đã đáp ứng ở mức cao. 4 yêu cầu Bộ Chính trị đặt ra cho đoàn đàm phán là Mỹ chấm dứt dính líu, can thiệp vào miền Nam Việt Nam; tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam; cam kết đóng góp hàn gắn vết thương chiến tranh và nhất là Mỹ rút quân.
|
|
Bà Nguyễn Thị Bình, Trưởng đoàn Chính phủ lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ký Hiệp định Paris năm 1973. Ảnh tư liệu |
Vai trò của CP-50 còn nguyên giá trị, nhất là trong công tác nghiên cứu và dự báo chiến lược, là một công tác rất khó nhưng không phải là không làm được. Ngày nay, chúng ta có những điều kiện thuận lợi hơn để làm tốt công tác này. Thời đại ngày nay là thời đại thông tin. Hằng ngày, có rất nhiều nguồn thông tin được chuyển đi trên toàn cầu. Tuy nhiên, công tác dự báo chiến lược không phải chỉ dừng ở mức nắm bắt thông tin. Khâu chủ yếu là phải biết sàng lọc và xử lý các thông tin, để từ đó đưa ra những dự báo đúng đắn. Do đó, công tác này đòi hỏi phải có một đội ngũ giỏi ngoại ngữ, nhanh nhạy, có kinh nghiệm và nhất là phải có tư duy năng động, dám nghĩ, dám làm...
Theo kinh nghiệm của các nước, việc tổ chức nghiên cứu dự báo chiến lược được giao phó cho các viện khoa học, thậm chí là viện tư nhân theo đơn đặt hàng của Bộ Ngoại giao. Còn ở nước ta, công tác nghiên cứu, dự báo chiến lược thường được giao cho các viện hoặc các trung tâm nghiên cứu, ít được mở rộng để thu thập ý kiến đóng góp rộng rãi của các tầng lớp nhân dân, do đó, phần nào còn bị hạn chế, chưa phát huy hết sự sáng tạo và có mặt, có thời điểm chưa bám sát, chưa theo kịp tình hình thực tiễn.
Nghiên cứu dự báo chiến lược là cả một quá trình và trong quá trình ấy phải tuyệt đối chống mọi biểu hiện chủ quan, duy ý chí. Mặt khác, phải chống bệnh xơ cứng, sa vào giáo điều chủ nghĩa, chỉ biết nhắc lại nguyên xi những gì đã ghi trong kinh điển, mặc dù thực tiễn đã đổi thay. Trong tình hình hiện nay, khi mà xu thế toàn cầu hóa về kinh tế đã là một xu thế không đảo ngược thì công tác nghiên cứu dự báo chiến lược trong quan hệ quốc tế càng trở nên cấp thiết...
GS, TS, Đại sứ VŨ DƯƠNG HUÂN, nguyên Giám đốc Học viện Ngoại giao, Bộ Ngoại giao