Sau những câu chuyện thăm hỏi, tôi hỏi chị về xuất xứ hai từ “đồng khởi”. Chị Ba Định cho hay: “Chấp hành Nghị quyết 15 của Trung ương và Nghị quyết của Khu ủy Khu 8, Tỉnh ủy Bến Tre quyết định phát động một tuần lễ toàn tỉnh nổi dậy, diệt ác, phá kìm, giành quyền làm chủ ở nông thôn. Tuần lễ mang tên “Toàn dân đồng tâm khởi nghĩa”, sau đó được bà con gọi tắt là “đồng khởi” và báo, đài đều đưa tin như vậy”.

Chị Ba Định nhớ lại: Sau khi dự hội nghị của Khu ủy ở Hồng Ngự về, đầu năm 1960, Tỉnh ủy Bến Tre họp hội nghị bất thường tại nhà chị Bảy Tốt ở xã Minh Đức, huyện Mỏ Cày. Hội nghị nhất trí với chủ trương “đồng khởi” và bàn biện pháp triển khai, quán triệt lời căn dặn của Bí thư Khu ủy: Kiên quyết nhưng khôn khéo, chỉ đạo điểm rồi nhân rộng.

Lúc ấy, ở Bến Tre chưa có bộ đội tập trung, súng ống chỉ có 5 khẩu, trước xã nào cũng có chi bộ, nay chỉ còn 18 xã có chi bộ. Hồi năm 1954 có 2.000 cán bộ, đảng viên “nằm vùng”, nay chỉ còn hơn 160 người.

Về phía địch, chúng có 9 đại đội bảo an, 24 tổng đoàn dân vệ, 600 cảnh sát mật vụ, đóng 300 đồn bốt dọc các lộ và rải khắp 115 xã.

Tương quan lực lượng chênh lệch rất lớn, nhưng sức mạnh của Bến Tre là 60 vạn dân, là lòng dân, sẵn sàng đứng dậy theo lời hiệu triệu của cách mạng: “Có dân thì có tất cả”. Vì vậy, Tỉnh ủy hạ quyết tâm “đồng khởi”.

Tỉnh trực tiếp chỉ đạo 3 xã (Định Thủy, Phước Hiệp, Bình Khánh) làm điểm đột phá mở đầu, sau đó mở rộng ra toàn tỉnh.

Tại Định Thủy, từ sớm tinh mơ, quần chúng có các tổ hành động làm nòng cốt đã nổi dậy với khí thế mãnh liệt. Lúc này, tên chỉ huy tổng đoàn đang ăn nhậu tại quán Năm Tiêu, bị tự vệ ta tước súng, bao vây, uy hiếp, gọi hàng. Kết quả, tổng đoàn dân vệ lưu động bị diệt, ta thu 12 súng, 3 lựu đạn, nhiều đạn. Cùng lúc, ta dùng nội ứng chiếm đồn Vàm Nước Trong, thu 15 súng, 10 lựu đạn, hàng nghìn viên đạn.

leftcenterrightdel

Đồng chí Nguyễn Thị Định với các nữ đại biểu dự Đại hội Anh hùng, chiến sĩ thi đua miền Nam lần thứ II, năm 1967. Ảnh tư liệu

“Đồng khởi” mở rộng trên toàn huyện Mỏ Cày; quần chúng đội ngũ chỉnh tề, vác súng đi thị uy, biểu dương lực lượng.

Chị Ba Định cho biết: “Mới một tuần “đồng khởi” đã có 22 xã giành thắng lợi, 25 xã giải phóng một phần; bức rút, bức hàng hàng chục đồn bốt. Tỉnh quyết định thành lập một đơn vị chủ lực, được trang bị tương đối đầy đủ. Bộ phận quân giới của tỉnh cũng tự chế được loại “súng ngựa trời” để trang bị cho bộ đội.

Cuối năm 1960, Tỉnh ủy mở hội nghị sơ kết chuyên đề “đồng khởi”. Lực lượng cách mạng toàn tỉnh phát triển mạnh mẽ, đã có 80 chi bộ đảng, 5.000 hội viên nông hội, 4 vạn hội viên phụ nữ, biên chế thành trung đội, đại đội trong “Đội quân tóc dài”, 3 vạn thanh niên giải phóng, 2 đại đội bộ đội tỉnh và hàng nghìn tự vệ, du kích.

Toàn tỉnh có 51 xã hoàn toàn giải phóng, 21 xã giải phóng một phần. Nhân dân làm chủ 300 ấp trong số 500 ấp. Hệ thống kìm kẹp của địch ở nông thôn bị đập nát.

Đặc biệt, qua “đồng khởi” xuất hiện “Đội quân tóc dài” với những chiến công vang dội. Tháng 3-1960, cuộc đấu tranh chính trị quyết liệt của gần 1 vạn phụ nữ Giồng Trôm đã buộc 1 tiểu đoàn địch đi càn ở Hiệp Hưng phải quay về. Ở thị xã Bến Tre, hơn 1 vạn bà con đấu tranh giằng co, đấu lý với địch khiến chúng phải chấp nhận yêu sách không bắn pháo vào dân, bồi thường tài sản cho dân. Tính trên toàn tỉnh, có đợt hơn 6 vạn quần chúng tham gia đấu tranh chính trị, binh vận, trong đó đa phần là chị em.

Chị Ba Định khẳng định: “Đội quân tóc dài” là sản phẩm độc đáo, đặc biệt của chiến tranh nhân dân Việt Nam. Đội quân đó ra đời từ “đồng khởi”, giữ vai trò vô cùng quan trọng, góp sức cùng vũ trang chuyển cách mạng miền Nam từ thế giữ lực lượng sang thế tiến công, liên tục tiến công cho đến ngày toàn thắng...

Ngày 26-8-1992, chị Ba Định từ trần. Còn tôi thì nhớ mãi hình ảnh của chị, vị Tư lệnh “Đội quân tóc dài”.