Truyền thuyết và thần tích cho chúng ta biết, nữ tướng Triệu Thị Trinh sinh ngày 2 tháng Mười năm Bính Ngọ (226), xuất thân trong một gia đình uy tín lớn, có anh trai là Triệu Quốc Đạt, một thủ lĩnh có thế lực ở huyện Quan Yên (hay Quân Yên), quận Cửu Chân (nay thuộc làng Quan Yên, hay còn gọi là Yên Thôn), xã Định Tiến, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa. Từ hồi nhỏ, Triệu Thị Trinh thích luyện tập võ nghệ, sớm có lòng yêu nước, căm thù giặc và nuôi chí khí đánh đuổi giặc Ngô: Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém con cá kình ở biển khơi, đánh đuổi quân Ngô, giành lại giang sơn.
Quá trình xây dựng và phát triển lực lượng chuẩn bị tiến hành khởi nghĩa, nghĩa quân do Bà Triệu cùng anh trai là Triệu Quốc Đạt lãnh đạo. Theo sử cũ chép lại, buổi đầu, lực lượng nghĩa quân chủ yếu là dân binh tham gia luyện tập quân sự. Sau đó, Bà Triệu truyền hịch đi khắp nơi, vạch trần tội ác giặc Ngô bóc lột nhân dân ta và kêu gọi dân chúng tham gia nghĩa quân.
Hiện nay, nhiều địa phương của Thanh Hóa còn lưu truyền biết bao câu chuyện về những người tham gia nghĩa quân Bà Triệu. Một ông già miền núi đã dùng lời ca, tiếng đàn cổ vũ người dân tham gia nghĩa quân. Một mẹ già miền xuôi đến quân doanh xin cho con gái mình được đầu quân, còn bà đem buồng chuối, chum nước chè xanh ủng hộ nghĩa quân... Theo tiếng gọi của Bà Triệu giúp dân, cứu nước, trai tráng khắp các địa phương nô nức kéo đến núi Quan Yên tụ nghĩa, nhờ vậy, hàng ngũ nghĩa quân ngày càng đông, đủ mọi thành phần, tầng lớp trong xã hội và thanh thế nghĩa quân không ngừng lớn mạnh.
Trung tâm cuộc khởi nghĩa là vùng núi Nưa-núi Tùng, trong đó núi Nưa cao gần 500m, là dãy núi cuối cùng chạy từ Tây Hiếu (Nghệ An) qua Như Xuân (Thanh Hóa). Đây là một trong những núi cao nhất vùng đồng bằng Thanh Hóa. Ở vào một vị trí địa lý-quân sự quan trọng của quận Cửu Chân, núi Nưa đã được Bà Triệu chọn làm căn cứ tập hợp nghĩa quân chuẩn bị khởi nghĩa. Tại đây, cảnh nghĩa quân Bà Triệu sau một ngày luyện tập võ nghệ được miêu tả: “Tất cả kéo nhau ra đầu làng ngóng về núi Nưa... Dựa theo màn sương, những bóng người lô nhô tiến về làng. Giáo mác, tên nỏ dựng mũi nhọn, rậm rịch trong sương... Các dân binh suốt một ngày lên núi Nưa tập trận, luyện võ, giờ đã được cha mẹ, vợ con chực sẵn ở đầu làng, đưa về nhà”.
Về những hoạt động của nghĩa quân trong quá trình chuẩn bị khởi nghĩa, nhiều truyền thuyết và dấu tích của nghĩa quân Bà Triệu hiện nay vẫn còn. Đó là đồi Chiêng Trống, nơi Bà Triệu gióng trống, phất cờ khởi nghĩa; eo Én, nơi nghĩa quân dùng én để tập bắn cung tên; khe Đá Bàn, nơi bộ chỉ huy nghĩa quân thường tụ họp bàn kế hoạch; bãi Bò, nơi nghĩa quân nuôi bò để lấy thịt...
Sau một thời gian tổ chức và xây dựng lực lượng, “không thể chần chừ được nữa, Triệu Thị Trinh đem hết sự việc trình với Triệu Quốc Đạt và thúc giục anh ra tay hành động ngay”. Theo kế hoạch đó, đầu năm 248, từ căn cứ núi Nưa, nghĩa quân Bà Triệu tiến công thành Tư Phố. Sử sách cũ không ghi diễn biến cụ thể cuộc tiến công này, chỉ nêu Bà Triệu nhóm họp các đảng phái đánh thành Tư Phố. Thuở đó, Tư Phố là quận lỵ của quận Cửu Chân, nơi đặt cơ quan đầu não của chính quyền đô hộ nhà Ngô (nay thuộc xã Thiệu Dương, TP Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa). Cuộc tập kích bất ngờ làm cho quân Ngô ở Tư Phố không kịp trở tay, nhanh chóng bị tiêu diệt.
Phát huy thế thắng, nghĩa quân vượt sông Mã tiến ra Bồ Điền (nay là thôn Phú Điền, xã Triệu Lộc, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa). Bồ Điền là một thung lũng nhỏ nằm giữa hai dãy núi đá vôi. Phía Bắc là dãy cuối cùng của mạch núi đá vôi từ Hòa Bình vào, ngăn cách giữa hai tỉnh Thanh Hóa và Hòa Bình; phía Nam là đoạn chót của mạch núi khác từ phía Tây Bắc đổ xuôi về Nam sông Mã.
Là địa điểm gần biển, lại là cửa ngõ từ vùng Đồng bằng Bắc Bộ vào xứ Thanh nên Bồ Điền trở thành một vị trí quân sự hiểm yếu, thuận lợi cả công và thủ. Theo truyền thuyết, Bà Triệu đã cùng 3 anh em họ Lý (ở Triệu Lộc, Hậu Lộc) gồm Lý Hoằng, Lý Mỹ, Lý Thành chỉ huy nghĩa quân xây đắp 7 đồn lũy và 1 trại quân ở núi Tùng, biến Bồ Điền thành một căn cứ vững chắc, làm bàn đạp có thể tiến ra Bắc, giải phóng Giao Châu (gồm cả Giao Chỉ, Cửu Chân).
Sau khi Triệu Quốc Đạt hy sinh trong một trận chiến đấu, Triệu Thị Trinh được quân sĩ suy tôn làm chủ tướng, gọi là Nhụy Kiều tướng quân, thay anh lãnh đạo nghĩa quân tiếp tục chiến đấu chống lại chính quyền đô hộ nhà Ngô. Nghĩa quân do Bà Triệu lãnh đạo, dựa vào căn cứ Bồ Điền hoạt động, được đông đảo dân chúng Cửu Chân hưởng ứng nên phát triển lực lượng và thanh thế ngày càng rộng khắp.
Theo truyền thuyết dân gian, tại căn cứ Bồ Điền, Bà Triệu đã chỉ huy nghĩa quân chiến đấu với giặc Ngô hơn 30 trận ác liệt, tiêu hao nhiều sinh lực địch. Danh tiếng chỉ huy của Bà Triệu khiến địch phải gọi tên bà là Lệ Hải Bà Vương (Vua bà mỹ lệ ở vùng biển).
Xuất phát từ căn cứ Bồ Điền, nghĩa quân do Bà Triệu chỉ huy tiến công đánh phá các thành ấp của giặc. Quan lại nhà Ngô từ thái thú đến huyện lệnh, huyện trưởng, kẻ bị giết, kẻ bị bắt, kẻ chạy trốn trong cơn hoảng loạn. Từ Cửu Chân, thanh thế nghĩa quân Bà Triệu nhanh chóng lan ra Giao Chỉ, vào tận Cửu Đức, Nhật Nam. Nghĩa quân liên tiếp đánh thắng nhiều trận, giết chết Thứ sử Giao Châu, làm tan rã chính quyền đô hộ nhà Ngô, giải phóng cả vùng Bắc sông Mã và một phần huyện Yên Mô (Ninh Bình), khiến cho “toàn Giao Châu náo động”.
Đứng trước nguy cơ chính quyền đô hộ bị tan rã, triều đình nhà Ngô vội cử tướng Lục Dận (cháu viên tướng Lục Tốn) làm Thứ sử Giao Châu, An Nam hiệu úy, chỉ huy 8.000 quân sang đàn áp nghĩa quân của Bà Triệu. Bằng lực lượng quân sự thiện chiến, chủ yếu là quân thủy, Lục Dận tiến theo hai đường vào Giao Châu. Hiện nay, ở vùng Yên Mô còn truyền thuyết về một trận quyết chiến giữa nghĩa quân Bà Triệu với quân Ngô.
Đây có thể là trận đánh của đạo quân do Bà Triệu điều từ Thanh Hóa ra đánh chặn địch ở phía Bắc. Còn Bà Triệu trực tiếp chỉ huy nghĩa quân chặn đánh quân Ngô trên dòng sông Mã. Nghĩa quân của Bà Triệu đã dùng cây gỗ và đá lăn từ trên núi xuống sông để nhấn chìm tàu chiến và đè bẹp quân giặc. Nhưng quân Ngô cậy đông và được tăng viện nên đã vượt qua sông Mã tới bao vây căn cứ Bồ Điền. Do tương quan lực lượng quá chênh lệch, trong một trận chiến đấu quyết liệt diễn ra ngày 22 tháng Hai năm Mậu Thìn (248), gây cho giặc một số thiệt hại, Bà Triệu đã anh dũng hy sinh.
Để tưởng nhớ, tri ân công lao to lớn của nữ tướng Triệu Thị Trinh đã lãnh đạo nghĩa quân đánh đuổi quân xâm lược nhà Ngô hồi giữa thế kỷ 3, nhiều địa phương trong cả nước đã lập đền thờ bà. Hằng năm, nhân dân địa phương tổ chức lễ giỗ tại Đền thờ Bà Triệu ở chân núi Tùng (xã Triệu Lộc) với lòng thành kính, tri ân sâu sắc nữ tướng họ Triệu, một trong những người kế tục xuất sắc sự nghiệp vĩ đại của Hai Bà Trưng; làm rạng rỡ truyền thống yêu nước, ý chí bất khuất, kiên cường, quyết tâm đánh giặc cứu nước của phụ nữ Việt Nam.
Đại tá, TS DƯƠNG ĐÌNH LẬP