Nguyễn Chích, hay Lê Chích, sinh năm 1382, quê thôn Vạn Lộc, xã Đông Ninh, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Xuất thân trong một gia đình nông dân nghèo, mồ côi cha mẹ từ nhỏ, với lòng yêu nước, căm thù giặc Minh xâm lược, Nguyễn Chích dựng cờ khởi nghĩa ở quê nhà. Sau một thời gian hoạt động, ông chuyển tới lập căn cứ ở núi Hoàng, núi Nghiêu, với đội nghĩa quân lúc đông nhất hơn 1.000 người. Biết được thanh thế nghĩa quân Nguyễn Chích hoạt động mạnh, Lê Lợi cho người mang thư mời Nguyễn Chích về Lam Sơn để hợp lực cùng đánh giặc cứu nước.

Chấp nhận lời mời của Lê Lợi, cuối năm 1420, Nguyễn Chích đem toàn bộ lực lượng của mình lên sáp nhập  với nghĩa quân Lam Sơn, dưới quyền chỉ huy của Bình Định vương Lê Lợi. Với bản lĩnh, tài trí và công lao trận mạc, Nguyễn Chích được Lê Lợi thăng chức Nhập nội thiếu úy, trở thành một tướng lĩnh cao cấp của nghĩa quân Lam Sơn.

Để mở rộng địa bàn hoạt động đòi hỏi Bộ chỉ huy nghĩa quân Lam Sơn phải tìm chỗ đứng chân mới để tạo nên bước phát triển vượt bậc của cuộc khởi nghĩa. Trước tình hình đó, tháng 10-1424, Lê Lợi tổ chức một cuộc họp gồm các tướng lĩnh của Bộ chỉ huy nghĩa quân Lam Sơn để bàn kế tiến thủ và xác định phương hướng chiến lược của nghĩa quân trong thời gian tới.

Bàn về vấn đề Lê Lợi đặt ra là “chúng ta sẽ đi về đâu để lo việc nước”, tức là xác định phương hướng chiến lược cho cuộc khởi nghĩa trong giai đoạn mới, với cương vị Nhập nội thiếu úy trong Bộ chỉ huy nghĩa quân, Nguyễn Chích trình bày một kế hoạch có tầm quan trọng đối với quá trình phát triển và thắng lợi của nghĩa quân Lam Sơn, đó là hiến kế chuyển căn cứ từ Lam Sơn (Thanh Hóa) vào Nghệ An-“nơi hiểm yếu, đất rộng, người đông”.

Theo Nguyễn Chích, “Nghệ An là nơi hiểm yếu, đất rộng, người đông. Tôi đã từng qua lại Nghệ An nên rất thông thuộc đường đất. Nay ta trước hãy đánh lấy Trà Long, chiếm giữ cho được Nghệ An để làm chỗ đứng chân, rồi dựa vào nhân lực, tài lực đất ấy mà quay ra đánh thành Đông Đô thì có thể tính xong việc dẹp yên thiên hạ” (theo “Khâm định Việt sử thông giám cương mục”, tập I, Nhà xuất bản Giáo dục, năm 1998). Kế hoạch được Nguyễn Chích đề xuất tuy ngắn gọn nhưng chứa đựng một tư tưởng quân sự lớn, một kế hoạch chiến lược quan trọng định hướng cho quá trình phát triển của nghĩa quân Lam Sơn.

Theo quan điểm của Nguyễn Chích, nếu nghĩa quân tiếp tục hoạt động ở Thanh Hóa thì thuận lợi là cơ bản, song cũng gặp khó khăn, thách thức lớn. Tại Thanh Hóa, quân Minh còn khá mạnh do chúng có hệ thống phòng ngự vững chắc, mà trung tâm là thành Tây Đô kiên cố, nơi tập trung một đội quân đông đảo, tinh nhuệ. Xung quanh Tây Đô, chúng thiết lập một hệ thống phòng vệ gồm 5 thiên hộ sở: Trung hữu, trung trung, trung tiền, trung hậu và thủy quân.

leftcenterrightdel

Lam Kinh, nơi phát tích cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do anh hùng dân tộc Lê Lợi khởi xướng và lãnh đạo. Ảnh: HOÀNG TIẾN 

Xa hơn nữa về phía Tây, có các đồn Khả Lam, Đa Căng, Nga Lạc, Quan Du lập ra gần căn cứ, uy hiếp nghĩa quân. Hơn nữa, Thanh Hóa nằm giữa thành Đông Quan và thành Nghệ An là những căn cứ quân sự lớn của địch. Chúng có thể từ nhiều phía bao vây, tiến công nghĩa quân. Trong khi thế và lực của nghĩa quân vẫn chưa đủ mạnh để tiến xuống vùng đồng bằng Thanh Hóa nhằm mở rộng địa bàn hoạt động thì việc bó hẹp phạm vi hoạt động ở vùng dân cư thưa thớt, điều kiện cung cấp lương thực khó khăn, rất hạn chế đến việc phát triển nghĩa quân, tạo chuyển biến lớn cho khởi nghĩa.

Nếu chuyển hướng từ Thanh Hóa tiến vào Nghệ An, lấy địa bàn này làm căn cứ, nghĩa quân sẽ có nhiều mặt thuận lợi hơn ở Thanh Hóa. Núi rừng Nghệ An cũng hiểm yếu không kém núi rừng Thanh Hóa, nhưng Nghệ An quả là “nơi hiểm yếu, đất rộng, người đông” như Nguyễn Chích nhận định. Ở Nghệ An, lực lượng địch bố trí mỏng và yếu hơn so với Thanh Hóa. Chính quyền đô hộ của nhà Minh ở Nghệ An mới xây dựng, chưa được củng cố và luôn phải đối phó với những cuộc khởi nghĩa của nhân dân, những cuộc binh biến của một số quan lại và binh sĩ yêu nước trong hàng ngũ thổ quan, thổ binh.

Ngoài thành Nghệ An, địch cũng không có hệ thống đồn lũy vững chắc như ở Thanh Hóa. Hơn nữa, lực lượng địch bố trí ở Nghệ An về phía Bắc, lại xa các thành Đông Quan, Tây Đô và về phía Nam, lực lượng địch ở Tân Bình, Thuận Hóa rất mỏng. Với vị trí cũng như điều kiện kinh tế và tình hình địch như vậy, nghĩa quân có thể từ Thanh Hóa theo đường “thượng đạo” tiến vào chiếm lĩnh miền núi rừng hiểm yếu ở Nghệ An, rồi tràn xuống vùng đồng bằng, bất ngờ tiến công giải phóng toàn phủ Nghệ An. Chiếm được Nghệ An, nghĩa quân không những có được địa bàn “đất rộng, người đông” là nguồn cung cấp nhân lực, vật lực dồi dào cho cuộc khởi nghĩa mà còn là nơi xây dựng đất đứng chân (lập nước chi địa) vững chắc để mở rộng phạm vi hoạt động, đánh chiếm một vùng rộng lớn từ Nghệ An tiến vào giải phóng Tân Bình, Thuận Hóa và cũng từ Nghệ An tiến ra giải phóng Diễn Châu và Thanh Hóa. Từ đây, lực lượng nghĩa quân có thể tiến công ra Bắc, đánh vào trung tâm sào huyệt của quân Minh ở Đông Quan, tiến tới giải phóng đất nước.

Kế hoạch chuyển hướng chiến lược từ Thanh Hóa vào Nghệ An xây dựng căn cứ địa là một ý tưởng hay, một cống hiến vô cùng to lớn của Nguyễn Chích. Kế hoạch này được hình thành trên cơ sở Nguyễn Chích đã hiểu biết sâu sắc về địa thế và vị trí chiến lược trọng yếu của vùng đất Nghệ An so với Thanh Hóa, bởi ông đã từng hoạt động ở Nam Thanh Hóa và Bắc Nghệ An. Quan điểm chuyển hướng chiến lược từ Thanh Hóa vào Nghệ An thể hiện Nguyễn Chích có tầm nhìn xa trông rộng, tư duy phân tích thực tiễn nhạy bén, sáng suốt của một nhà chiến lược quân sự xuất sắc. “Điều này hoàn toàn phù hợp với tư tưởng và yêu cầu của Lê Lợi đã chủ trương đánh xuống đồng bằng. Đánh vào giải phóng Nghệ An cũng là đánh xuống vùng đồng bằng, tạo thêm điều kiện cho phong trào phát triển mạnh mẽ hơn. Đó là tư tưởng chiến lược đúng đắn nhất, thích hợp với thời cơ và hoàn cảnh chiến đấu lúc bấy giờ của nghĩa quân Lam Sơn” (theo “Lịch sử tư tưởng quân sự Việt Nam”, tập I, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, năm 2014, trang 459).

Theo kế hoạch chiến lược đó, từ tháng 10-1424 đến năm 1425, Lê Lợi và Bộ chỉ huy nghĩa quân lệnh cho nghĩa quân bắt đầu chuyển hướng hoạt động từ Lam Sơn tiến vào phía Nam. Nghĩa quân giành thắng lợi liên tiếp ở Đa Căng, Bồ Lạp, Trà Long, Khả Lưu, Bồ Ải và giải phóng phủ thành Diễn Châu (Nghệ An), rồi thừa thắng tiến ra giải phóng Thanh Hóa. Tiếp đó, nghĩa quân tiến vào phía trong đánh chiếm Tân Bình, Thuận Hóa (Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên). Từ năm 1426, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn phát triển thành chiến tranh giải phóng dân tộc trên quy mô cả nước, với những chiến công hiển hách, điển hình ở Tốt Động-Chúc Động và Chi Lăng-Xương Giang, tiến tới kết thúc cuộc kháng chiến chống Minh, giành độc lập dân tộc.

Có thể nói, kế sách chuyển hướng chiến lược sáng suốt từ Thanh Hóa vào Nghệ An do Nguyễn Chích đề xuất và được Lê Lợi cùng Bộ chỉ huy nghĩa quân Lam Sơn chấp thuận là một bảo đảm cực kỳ quan trọng cho hàng loạt chiến thắng của nghĩa quân từ cuối năm 1424 trở đi. Cho

dù những việc làm của Nguyễn Chích được sử cũ ghi lại vắn tắt, nhưng với việc hiến kế chuyển hướng chiến lược từ Thanh Hóa vào Nghệ An xây dựng đất đứng chân, tạo nên bước tiến quan trọng từ cuộc khởi nghĩa phát triển thành chiến tranh giải phóng dân tộc trên cả nước và giành thắng lợi cũng đủ cho hậu thế nhận thấy tài năng quân sự cùng những cống hiến to lớn của ông. Nguyễn Chích xứng đáng là một danh tướng tài năng, nhà chiến lược quân sự xuất sắc ở thế kỷ 15.

Đại tá, TS DƯƠNG ĐÌNH LẬP