Huỳnh Văn Nghệ sinh năm 1914, tại làng Tân Tịch, tổng Chánh Mỹ Hạ, tỉnh Biên Hòa (nay là xã Thường Tân, TP Hồ Chí Minh). Là người thông minh, học giỏi, Huỳnh Văn Nghệ được nhận học bổng vào học Trường Trung học Petrus Ký (nay là Trường THPT Lê Hồng Phong, phường Chợ Quán, TP Hồ Chí Minh). Sớm giác ngộ, từ năm 1932, Huỳnh Văn Nghệ đã tham gia các hoạt động do Đảng lãnh đạo. Năm 1942, bị lộ, ông phải trốn sang Thái Lan và hoạt động trong phong trào Việt kiều yêu nước. Năm 1944 về nước, ông bắt liên lạc với cách mạng, được phân công lập căn cứ Đất Cuốc tại Tân Uyên, Biên Hòa. Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, Huỳnh Văn Nghệ trực tiếp tham gia chỉ huy giành chính quyền ở Biên Hòa. Nam Bộ kháng chiến, ông tham gia Ủy ban Kháng chiến miền Đông. Khi giặc Pháp đánh lấn ra các vùng ngoại vi Sài Gòn-Gia Định, tham gia chiến đấu tại các mặt trận Sài Gòn-Chợ Lớn, Thị Nghè, chặn quân giặc tiến về miền Đông Nam Bộ, Huỳnh Văn Nghệ trực tiếp chỉ huy lực lượng đốt Tòa bố, Sở cò, Bưu điện Biên Hòa, đem vũ khí thu được của địch về Tân Uyên xây dựng lực lượng. Căn cứ ở Tân Uyên được ông bố trí phòng ngự vững chắc, bảo đảm tốt vai trò hậu cần cho lực lượng vũ trang của tỉnh và các tỉnh bạn, đồng thời làm nhiệm vụ bảo vệ Khu bộ. Tân Uyên trở thành một trong những căn cứ kháng chiến vững mạnh nhất ở Nam Bộ lúc bấy giờ.

Khi quân Pháp liên tiếp mở các trận tiến công lớn vào chiến khu, Huỳnh Văn Nghệ chỉ huy lực lượng tham gia trận phản công lớn đầu tiên của Nam Bộ đánh vào thị xã Biên Hòa (ngày 2-1-1946). Sau đó, ông nhận nhiều nhiệm vụ quan trọng như Khu bộ phó Khu 7, kiêm Trung đoàn trưởng Trung đoàn 310, trực tiếp chỉ huy trận La Ngà-trận giao thông chiến lớn nhất ở Nam Bộ kể từ ngày giặc Pháp tái chiếm. Sau trận này, Trung đoàn 310 được Bác Hồ khen thưởng Huân chương Chiến công hạng Hai, riêng Huỳnh Văn Nghệ được Bác tặng chiếc áo trấn thủ. Năm 1950, sau khi sáp nhập Sài Gòn-Chợ Lớn vào Khu 7, ông giữ chức Phó tư lệnh Khu 7. Năm 1951, hai tỉnh Thủ Dầu Một và Biên Hòa sáp nhập, ông là Ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy, Tỉnh đội trưởng Thủ Biên, chỉ huy nhiều trận đánh lớn bảo vệ Bộ tư lệnh Giải phóng quân Nam Bộ đóng ở Chiến khu Đ.

Tháng 5-1953, ông được cử ra miền Bắc học và ở lại công tác gần 12 năm, trải qua các chức vụ: Trưởng phòng Thể dục Thể thao, Phó cục trưởng Cục Quân huấn, Bộ Tổng Tham mưu; Phó tổng cục trưởng Tổng cục Lâm nghiệp. Năm 1965, ông trở về miền Nam phụ trách khu căn cứ Trung ương Cục, Phó ban Kinh tài Trung ương Cục miền Nam. Đất nước thống nhất, ông được giao trọng trách Thứ trưởng Bộ Lâm nghiệp. Huỳnh Văn Nghệ được tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học-nghệ thuật (năm 2007), được truy tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân (năm 2010).

leftcenterrightdel

 Đồng chí Huỳnh Văn Nghệ tại Chiến khu Đ

Nói về nhà thơ Huỳnh Văn Nghệ, ai cũng nhớ các bài thơ: “Tiễn bạn về Bắc”, “Về Bắc”, “Nhớ Bắc” nổi tiếng của ông. Tứ thơ của bài “Tiễn bạn về Bắc” bắt nguồn từ buổi tiễn bạn tại sân ga Sài Gòn năm 1940. Đúng dịp thông tuyến đường sắt Bắc-Nam, Sở Hỏa xa Sài Gòn được chính quyền bảo hộ ưu tiên cho một số nhân viên đi tham quan Hà Nội bằng xe lửa. Huỳnh Văn Nghệ may mắn được chọn. Hai ngày trước khi lên đường, ông nhường lại suất của mình cho một người bạn. Buổi chiều ấy ra sân ga tiễn bạn, khi đoàn tàu dần khuất bóng, cảm hứng dâng trào, Huỳnh Văn Nghệ đã bật ra những câu thơ xuất thần: Ai đi về Bắc ta đi với/ Thăm lại non sông giống Lạc Hồng/ Từ độ mang gươm đi mở cõi/ Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long. Đây cũng là tứ thơ đầu cho các bài thơ sau, được ông viết trong thập niên 1940.

Với các thi nhân, luôn cần có môi trường tạo cảm hứng. Sau này, không gian chiến trường Chiến khu Đ là cảm hứng để thi sĩ Huỳnh Văn Nghệ viết nên những áng thơ để đời. Ông xứng đáng được tôn vinh là người viết sử bằng thơ về Chiến khu Đ của “miền Đông gian lao mà anh dũng”, thể hiện chân thực, sinh động hiện thực cuộc sống chiến đấu anh hùng. Những năm đầu kháng chiến, thơ ông vui tươi, đầy tinh thần lãng mạn: Phấp phới cờ bay với gió xuân/ Quân ca từng khúc, nhịp xa gần/ Từng đoàn chiến sĩ đi ra trận/ Có bướm, chim đưa tận cuối rừng (Xuân chiến khu). Bài này làm trong dịp Tết kháng chiến đầu tiên ở Chiến khu Đ, năm 1946. Kháng chiến ngày càng ác liệt, tuy nói về bi kịch mất mát nhưng vẫn là tiếng thơ lạc quan, như nhìn thấy chiến thắng sắp đến gần: Biên Hòa đã mất/ Chiến khu Đ cờ vẫn đỏ ngọn cao/ Du kích Tân Uyên ngày đào đắp chiến hào/ Đêm tập một, hai vang trường Đất Cuốc/ Già, trẻ, gái, trai rộn ràng tập hát/ Tiến quân ca (Ngày hội). Đất đai bị giặc chiếm, tất nhiên là khó khăn, hy sinh, gian khổ: Mất bờ sông là mất một nửa chiến khu/ Mất nước ngọt, bờ tre gió mát/ Thuyền tiếp tế, lúa khoai chìm đáy nước/ Đường giao thông liên lạc đứt đôi bờ. Nhưng chúng ta sẽ giành lại nhờ ý chí quyết tâm của lòng yêu nước: Nhưng quân thù vẫn sợ lòng chiến khu/ Cờ đỏ vẫn phất cao cành cổ thụ (Bờ sông bị chiếm). Thơ ông nhiều đối thoại, là những tiếng nói tự nhiên giữa đời thường nhưng mang ý nghĩa khái quát cao về một giai đoạn lịch sử: Thấy mẹ buồn, con hỏi/ “Má tiếc gì má ơi!/ Nhà mình con đốt rồi/ Kẻo mai thành bót giặc” (Mẹ buồn). Chỉ mấy câu thơ nhưng cho người đọc hình dung ra cả một thời tiêu thổ kháng chiến, người dân sẵn lòng đốt ngôi nhà-nơi ở, điểm tựa của mình để chống giặc.

leftcenterrightdel
Cuốn sách “Huỳnh Văn Nghệ, tác giả và tác phẩm”, Nhà xuất bản Đồng Nai, năm 2008.

“Tiếng hát giữa rừng” là bài thơ tiêu biểu cho phong cách Huỳnh Văn Nghệ làm tại Chiến khu Đ, năm 1946. Chỉ là lời thuật nhưng cho thấy cả một thời đại anh hùng, ai ai cũng xả thân vì Tổ quốc: Bác sĩ vừa cưa vừa khóc/ Chị cứu thương mắt cũng đỏ hoe/ Nhìn ảnh Bác Hồ trên tấm vách tre/ Anh chiến sĩ cứ mê mải hát/ Cưa cứ cưa, xương cứ đứt/ Máu cứ rơi từng vết đỏ bông/ Hai bàn tay siết chặt đôi hông/ Dồn hết phổi vào trong tiếng hát:/ “Đoàn quân Việt Nam đi, chung lòng cứu quốc...”/... Ảnh Bác Hồ như rưng rưng nước mắt. Hoàn cảnh ra đời của bài thơ xuất phát từ một câu chuyện có thật: Anh bộ đội Bùi Xuân Tảo bị thương trong trận tấn công thị xã Biên Hòa vào đầu tháng 1-1946, được đưa về quân y viện ở Ðất Cuốc-Chiến khu Ð. Kháng chiến thiếu thốn trăm bề, vì thuốc mê ít, bác sĩ bảo người thương binh hãy hát một bài gì đó để át đi sự đau đớn khi giải phẫu và anh đã hát bài “Tiến quân ca”. Ca mổ diễn ra đúng lúc Tám Nghệ cưỡi ngựa đi ngang và trực tiếp chứng kiến...

Những câu thơ ấy, những sự kiện ấy, những con người ấy như những ngọn lửa lý tưởng làm bừng sáng chân lý: Không có gì quý hơn độc lập, tự do. Và mãi là ngọn lửa đạo lý soi cho mai sau nhớ về cha ông đã chịu đựng hy sinh, cực khổ để có đất nước hôm nay vươn mình vào bầu trời hòa bình, hạnh phúc.

Với những đóng góp lớn lao, tên tuổi Huỳnh Văn Nghệ được ghi vào “Từ điển danh nhân Việt Nam”, “Từ điển thành phố Sài Gòn-Hồ Chí Minh”, được đặt tên cho một số trường học, đường phố ở TP Hồ Chí Minh ngày nay.

PGS, TS NGUYỄN THANH TÚ