Ông nói: “Đây là anh Chín Huê, tức Hồ Văn Huê, lúc đó đang là Cục phó Cục Hậu cần kiêm Trưởng phòng Quân y miền Nam; tôi ngồi cạnh bên phải, còn lại là hai bác sĩ Nguyễn Sĩ Quốc và Nguyễn Thúc Mậu, sau ra Bắc đều trở thành lãnh đạo Cục Quân y. Anh Chín Huê lớn tuổi nhất, tốt nghiệp Trường Y khoa Hà Nội khóa 1939-1944)”.
GS Bùi Đại năm nay 95 tuổi, trí nhớ còn tốt, cho biết Hồ Văn Huê sinh năm Đinh Tỵ (1917) tại Phước Tuy, Cần Đước, Long An, trong một gia đình làm thuốc Bắc, mồ côi cha mẹ lúc mới 10 tuổi. Anh Chín học rất siêng năng, từ nhỏ đã có chí hướng theo nghề cha mẹ để làm thầy thuốc giúp đỡ bà con nghèo khó.
Cuối năm 1944, có bằng bác sĩ, anh không mở phòng mạch tư ở Sài Gòn mà vào đồn điền Quảng Lợi (Thủ Dầu Một) để chữa bệnh cho phu cao su. Rồi anh được đồng chí Trần Văn Giàu giác ngộ cách mạng. Tháng 8-1945, anh đứng ra tổ chức công nhân cao su Quảng Lợi cướp chính quyền, thành lập Ủy ban Hành chính Quảng Lợi và anh được bầu làm Chủ tịch ủy ban. Sau ngày Nam Bộ kháng chiến 23-9-1945, anh vào chiến trường miền Đông, được Tư lệnh Bộ tư lệnh Nam Bộ là Trung tướng Nguyễn Bình giao nhiệm vụ Trưởng ban Y tế Chiến khu Thuận An-Biên Hòa, sau này là Chiến khu Đ. Từ đấy anh lăn lộn khắp chiến trường miền Đông Nam Bộ chỉ đạo bảo đảm quân y trong kháng chiến chống Pháp với các chức vụ: Trưởng phòng Quân y Quân khu 7; Trưởng phòng Quân y Nam Bộ.
Sau Hiệp định Geneva năm 1954, anh tập kết ra Bắc, là Cục phó Cục Quân y, Tổng cục Hậu cần phụ trách công tác huấn luyện, đào tạo cán bộ chuẩn bị cho chiến trường B. Với sự nhạy cảm, nhìn xa trông rộng, anh đã nỗ lực góp phần đào tạo cấp tốc hàng trăm cán bộ y dược cao cấp đáp ứng được nhiệm vụ ở chiến trường những năm đầu cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Đầu năm 1964, anh Chín Huê được cấp trên chỉ định về lại chiến trường Đông Nam Bộ bằng tàu không số. Ở cương vị mới là Cục phó Cục Hậu cần kiêm Trưởng phòng Quân y Miền, anh đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo đảm quân y cho các chiến dịch lớn ở chiến trường miền Đông.
GS Bùi Đại kể, khi ông vào Trường Sơn, đến chiến trường miền Đông, ngay từ buổi đầu đã gắn bó mật thiết với bác sĩ Hồ Văn Huê trong việc chỉ đạo phòng, chống và điều trị bệnh sốt rét cho bộ đội và nhân dân. Ở chiến trường, bộ đội, thanh niên xung phong hy sinh nhiều vì sốt rét ác tính. Bản thân GS Bùi Đại cũng một lần dính sốt rét ở Sa Thầy, còn bác sĩ Chín Huê ngay sau khi trở về miền Đông đã bị lên cơn sốt rét ác tính, sức khỏe của ông từ đó bị giảm sút nhiều. Ngày đó, bộ đội ta vẫn điều trị sốt rét bằng thuốc Quinine, đến một thời gian ký sinh trùng sốt rét nhờn thuốc. Buổi đầu vào chiến trường, ông và các đồng nghiệp ở các đội điều trị làm theo đúng phác đồ đã có của Cục Quân y mà số người bị sốt rét rồi tử vong vẫn không thuyên giảm. Tại các bãi khách đưa đón quân vào ra, số người phải nằm lại do sốt rét không đếm xuể.
Theo nghiên cứu của Phòng Quân y Miền do bác sĩ Chín Huê đứng đầu thì riêng khu vực miền Đông có tới 18/25 chủng loại muỗi Anopheles gây bệnh sốt rét. Toàn tuyến biết 23/66 điểm có ký sinh trùng sốt rét đã kháng thuốc chống sốt rét rõ rệt. Tại chiến trường, GS Bùi Đại được sự trợ giúp tích cực của bác sĩ Hồ Văn Huê đã thử nghiệm một phác đồ điều trị mới, có kết quả, được Cục Quân y chấp nhận, áp dụng cho toàn chiến trường miền Nam. Đó là phương pháp phối hợp thuốc Quinine hoặc Chloroquine với Pyrimethamine. Từ đây đã đưa đến bỏ cách uống thuốc điều trị dự phòng hằng tuần trước kia và đồng thời cũng bỏ cách uống dự phòng thường xuyên cho người đã ở nhiều năm trong vùng sốt rét. Cách uống thuốc mới có hiệu lực hơn, tiết kiệm kinh phí hơn, uống chặn cơn, chặn mùa, chặn dịch.
GS Bùi Đại kể, quãng thời gian được làm việc trực tiếp với anh Chín Huê chỉ chưa đầy một năm, song đã để lại trong ông một ấn tượng hết sức tốt đẹp về một người anh, người đồng nghiệp, người đảng viên mẫu mực với “4 đức tính”, đó là: Cách mạng triệt để; hết lòng phục vụ thương binh, bệnh binh; nêu cao y đức và chân thành, đoàn kết với mọi người.
Không lâu sau ngày đất nước thống nhất, bác sĩ Hồ Văn Huê vẫn bị di chứng của căn bệnh sốt rét rừng hành hạ, cùng sự phát tác của chất độc da cam thời kỳ dài sống ở miền Đông. Ông đã lâm bệnh nặng và trút hơi thở cuối cùng ngày 7-9-1976 tại Bệnh viện Quân y 175, hưởng thọ 59 tuổi. Tên người thầy thuốc quân y mẫu mực đó đã được chính quyền TP Hồ Chí Minh đặt cho một con đường ở phường 9, quận Phú Nhuận. Còn có một con đường mang tên Hồ Văn Huê ở thị trấn Cần Đước (Long An), quê hương ông.
PHẠM QUANG ĐẨU