Thượng tá Nguyễn Thị Như Trang (1939-2016), hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, quê ở Hưng Yên, công tác tại Tạp chí Văn nghệ Quân đội, từng trải qua cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; làm nhiệm vụ quốc tế giúp nhân dân Campuchia; bảo vệ biên giới phía Bắc Tổ quốc. Hơn nửa thế kỷ cầm bút, bà đã xuất bản khoảng 30 tác phẩm, trong đó có 10 tập truyện ngắn, truyện vừa, 5 tập tiểu thuyết về đề tài chiến tranh cách mạng; được tặng: Giải nhì cuộc thi truyện ngắn Tuần báo Văn nghệ (1966-1967); Giải thưởng văn học Bộ Quốc phòng (1989-1994); Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật (2012)...

Từ trang đời bước vào trang văn

Lý luận văn chương luôn khẳng định văn học là cuộc đời, bám sát vào cuộc sống để cất lên tiếng nói của cuộc sống. Với sự nghiệp và tác phẩm của nhà văn Nguyễn Thị Như Trang thì đúng là như vậy. Vốn là kế toán thương nghiệp, có trực cảm quan sát tinh tế và năng khiếu, bà viết vở kịch ngắn “Ông cửa hàng trưởng” (1964), ca ngợi những cán bộ thẳng thắn, trách nhiệm trong việc thu mua và phân phối hàng hóa-đặc trưng của thời bao cấp trong chiến tranh. Nội dung đơn giản nhưng nói lên được vấn đề của xã hội đang cần. Tác phẩm được trao giải thưởng văn học của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, cũng là “tấm vé” để bà vào học lớp viết văn trẻ khóa II (1965-1966) của Hội Nhà văn Việt Nam. Ra trường, bà về công tác ở Báo Quân khu 3 (1966-1969), trở thành một phóng viên năng nổ, sẵn sàng đi vào điểm nóng nhất để phản ánh cuộc chiến đấu anh dũng của quân dân Hải Phòng những ngày tháng Mỹ ném bom ác liệt và thả thủy lôi phong tỏa biển. Đi đến các đảo vùng Đông Bắc Tổ quốc (thuộc địa bàn Khu 3), bà miệt mài viết về những tấm gương anh hùng. Khi đã mặc áo lính, năm 1967, nhà văn có tác phẩm “Màu tím hoa mua” tham gia cuộc thi viết truyện ngắn của Tuần báo Văn nghệ và giành giải nhì (không có giải nhất). Thuộc dạng truyện người tốt, việc tốt, bám sát thực tế đời sống, có nguyên mẫu ngoài đời là một anh hùng của ngành thương nghiệp-trong bối cảnh ấy, truyện thật đáng quý, hướng con người về miền lý tưởng trong sáng, hy sinh lợi ích cá nhân vì sự nghiệp chung.

leftcenterrightdel
Nhà văn Nguyễn Thị Như Trang (1939-2016). 

Năm 1969, Nguyễn Thị Như Trang về Tạp chí Văn nghệ Quân đội vừa làm biên tập viên vừa là phóng viên chiến trường. Là phụ nữ có gia đình, con nhỏ, nhưng với bản lĩnh, nghị lực và tài năng, bà vượt qua mọi khó khăn, thử thách để có những đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Bà là tấm gương sáng, không chỉ cho thời ấy mà cho nhiều thời sau. Những năm chống Mỹ gian nan, vừa để viết báo tuyên truyền những tấm gương chiến đấu, cũng là một cách tích lũy vốn sống, Như Trang gửi lại con nhỏ, nhờ gia đình nội ngoại trông nom, xin vào tuyến lửa Khu 4 thâm nhập thực tế ở các đơn vị nữ thanh niên xung phong. Bà cũng từng có mặt tại nhiều trọng điểm ác liệt ở Trường Sơn.

Dấu ấn chiến tranh trên trang văn

Như một cây xanh cắm sâu bộ rễ khỏe mạnh vào mảnh đất đời sống chiến tranh nên đã kết được trái thơm tác phẩm mang đậm hương vị của chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Những trang văn của bà trước năm 1975 (qua hai tập truyện “Màu tím hoa mua”; “Ở thành phố bờ biển”) mang rõ bóng dáng, thậm chí là bản chất của sự kiện. Đó là những truyện ký đậm chất trữ tình, sâu sắc nhân văn, về thiên nhiên, con người thời chống Mỹ. Truyện “Tiếng mưa” lại kể câu chuyện cô chiến sĩ quân y, trước khi vào chiến trường, ghé thăm mẹ đang sơ tán ở một làng quê trung du. Theo mạch truyện, hình ảnh một gia đình cách mạng hiện lên như một tấm gương sáng ngời lý tưởng. Mỗi người theo cách riêng, các thế hệ đều tham gia kháng chiến cứu nước. Người mẹ cũng vậy. Người con trai của mẹ đang ở chiến trường. Bây giờ đến con gái tiếp bước. Truyện tiêu biểu cho thời đại cả dân tộc lên đường: “Lớp cha trước, lớp con sau/ Đã thành đồng chí chung câu quân hành” (Tố Hữu).

Đến với các đơn vị nữ thanh niên xung phong ở tuyến lửa Khu 4 (vùng núi Quảng Bình), bà có nhiều truyện ngắn hay, để sau này (1976) in thành tập “Câu chuyện ở rừng”. Với đặc trưng ngắn gọn, dễ hiểu, nhưng đầy ắp không khí thực tế chiến trường, những câu chuyện làm sáng lên vẻ đẹp tuổi trẻ Việt Nam với ý chí, niềm tin, nhất là tinh thần hy sinh cao cả, có trách nhiệm cao trong công việc nguy hiểm nổ mìn phá đá mở đường, phá bom cho xe qua... Đọc những trang văn tràn đầy tính lý tưởng ấy, bạn đọc thấy chiến thắng đang đến rất gần. Những ngày đi thực tế cũng là thời gian để nhà văn “thai nghén”, để rồi năm 1976 có tiểu thuyết đầu tay “Khoảng sáng trong rừng” gây ngạc nhiên với những “cây đa, cây đề” như Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Lê Lựu... Tái hiện cuộc sống chiến đấu và đời sống tình cảm của con người trong hoàn cảnh khốc liệt, nơi rừng núi hết sức gian khổ nhưng chan hòa niềm tin, ấm áp tình đồng đội, cao cả tình yêu... Đó là những “khoảng sáng” nơi “trong rừng” chiến tranh. Tiểu thuyết khẳng định bút pháp tiểu thuyết Như Trang nồng nàn hơi thở thực tế, khát khao cống hiến, giàu có niềm tin.

leftcenterrightdel
 
leftcenterrightdel
 Các tác phẩm của nhà văn Nguyễn Thị Như Trang. Ảnh: NGUYÊN THANH

Chất ký ghi chép một cách chọn lọc, tiêu biểu, trung thực, sinh động là thế mạnh của văn xuôi Như Trang. Vì ai đã từng đi qua chiến tranh đều biết, chỉ cần phản ánh đúng thực tế những gì diễn ra về sự kiện, về tâm trạng nhân vật thì đó là những trang văn có giá trị. “Điều không khắc vào đá” là một trong những tác phẩm sớm nhất viết về những người lính tình nguyện chiến đấu trên đất bạn Campuchia. Họ hiện lên mộc mạc, chân thành, dung dị, ngoài sự căm thù cái ác, cái phản bội, là những trái tim rất đỗi thương yêu những người dân hiền lành, vô tội. Trong tập “Nhật ký Phnom Penh”, bên cạnh những anh bộ đội tình nguyện là những thân phận đau khổ, nhất là những người phụ nữ Khmer thật đáng thương-nạn nhân của chế độ diệt chủng.

Ngòi bút nhân hậu

Quyết liệt, mạnh mẽ mà nhân ái, bao dung, đấy là đặc trưng cả trong văn và ngoài đời của Như Trang. Bà từng tâm sự, viết và làm việc đều hết mình, tận cùng, không buông bỏ, không bàn lùi. Trang văn của bà rõ một sự đầy đặn về vốn sống, đủ đầy về cảm xúc. Ngay sau giải phóng, bà xin vào miền Nam để tìm hiểu và lấy tài liệu làm chất liệu cho những tiểu thuyết viết về các nữ chiến sĩ biệt động như “Cây thông non”; “Biệt thự có giàn hoa tím”. Đúng với phong cách, sở trường, các tác phẩm này hấp dẫn người đọc về hình tượng những nữ biệt động mạnh mẽ, can đảm, thông minh nhưng cũng rất giàu có tình thương đồng đội, yêu dân, yêu gia đình. Những phẩm cách ấy không hề đối lập mà bổ sung cho nhau để cùng tôn lên vẻ đẹp người nữ chiến sĩ anh hùng, quả cảm.

Với tính cách ấy, phong cách ấy, Như Trang là tác giả của tiểu thuyết “Đứa con bị ruồng bỏ” là dễ hiểu. Một tình huống lạ, hiếm của thời kỳ đầu đổi mới được nhà văn lấy từ nguyên mẫu một vụ án có thật: Người mẹ buộc phải giết chết đứa con trai duy nhất vì nó sa ngã, bất lương, không thể “cải tà quy chính”. Giết cái ác để gieo mầm cái thiện. Người mẹ phải vô cùng dũng cảm và cũng tận cùng hướng thiện mới dám có hành động ấy. Phải quả cảm, phải thấu hiểu tận độ, thấu cảm tận cùng nỗi đau người mẹ, phải miêu tả cho đúng hành động và tâm lý nhân vật ở tình huống phân cực cao độ... Nhà văn đã vượt qua tất cả để có một tiểu thuyết mang ý nghĩa gióng lên tiếng chuông cảnh tỉnh cho toàn xã hội về mặt trái cơ chế thị trường sẽ tàn phá nhân tính con người. Những trang văn mạnh mẽ lên án tình trạng suy thoái về nhân tính cũng là cách để con người nhìn ra cái ác, cái xấu mà sống nhân văn, tình nghĩa hơn.

Cuộc đời và trang văn của Như Trang là sự chứng minh một nguyên lý: Văn học phải bám vào đời sống, nhà văn phải nhập thân vào đời sống. Nhà văn từng tâm sự với người viết bài này: Không có chiến tranh sẽ không có nhà văn Như Trang. Chẳng ai muốn có chiến tranh, nên sự xuất hiện của “nhà văn Như Trang” là bất đắc dĩ. Nhưng đất nước có giặc, thì nam nữ đều phải lên đường... Như Trang cũng “lên đường” đuổi giặc theo cách riêng của mình. Một lời tâm sự  khiêm tốn, nặng sâu trách nhiệm của một nhân cách đáng kính!

PGS, TS NGUYỄN THANH TÚ