Hoạt động ngay trong lòng địch
Chùa Vĩnh Đức tọa lạc tại phường 1, thành phố Bạc Liêu, được xây dựng năm 1887, ban đầu chỉ là thảo am nhỏ, đơn sơ, chủ yếu bằng cây lá rừng. Đến năm 1915, ngài Giáo thọ Xuân Phong đương chức Hương Văn đình Tân Hưng, làng Vĩnh Lợi tổ chức trùng tu lại ngôi chùa. “Sư cụ Xuân Phong nói được tiếng Pháp, Hoa, Khmer. Ông thường làm thông ngôn cho các đình, chùa khi có việc với chính quyền Pháp cai trị lúc bấy giờ nên rất có uy tín và được chức sắc ở Bạc Liêu tin cậy, thương mến. Vì vậy mà mọi người thường gọi sư cụ là ông Ký và chùa Vĩnh Đức đến ngày nay vẫn còn có tên khác là chùa Ông Ký”, ông Thích Quảng Thiệt, Giám tự chùa Vĩnh Đức kể.
Cũng theo lời ông Thiệt, sư cụ Xuân Phong là người say mê nhạc lễ, đờn ca tài tử và ái mộ sư Nguyệt Chiếu nên ông mời sư Nguyệt Chiếu về chùa Vĩnh Đức đảm nhiệm phần chấp sự. Những năm phong trào cách mạng ở Bạc Liêu mới nổi dậy hoạt động rất khó khăn, sư Xuân Phong, Nguyệt Chiếu là người mang tư tưởng Đại thừa Phật giáo, không theo Pháp nên được tổ chức vận động, giác ngộ theo cách mạng tham gia cứu quốc và cho chùa làm cơ sở tuyên truyền, chuyển tin tức, nuôi giấu cán bộ, chiến sĩ ta.
Ông Thích Quảng Thiệt cho biết: Ở tỉnh Bến Tre có ông Nguyễn Văn Đằng (tức Hòa thượng Thích Hiển Giác), người làng Tân Thủy, huyện Ba Tri, tham gia cách mạng năm 1945 nhưng bị lộ, bị chính quyền Ngô Đình Diệm truy nã phải xuống tóc làm thầy tu để hoạt động bí mật. Trên đường lánh nạn, ông đã dừng chân ở nhiều ngôi chùa các tỉnh miền Tây, cuối cùng là chùa Vĩnh Đức. Từ đây, ngôi chùa không chỉ là nơi thờ phụng tâm linh, nơi sinh hoạt tín ngưỡng của phật tử mà còn là cơ sở cách mạng ngay trong lòng địch. Năm 1968, truyền thống cách mạng càng đậm nét hơn dưới sự trụ trì của Thượng tọa Thích Hiển Giác, chùa Vĩnh Đức trở thành trung tâm tập hợp các nhân sĩ trí thức, lãnh tụ tôn giáo yêu nước và đầu mối liên lạc cơ sở bí mật nội thành.
Ngày không đổ máu
Đầu năm 1975, ông Thích Quảng Thiệt là Chánh thư ký Tỉnh hội Phật giáo Bạc Liêu được đại tá, tỉnh trưởng ngụy quyền Sài Gòn Nguyễn Ngọc Điệp đưa vào giữ chức phó chủ tịch hội đồng tử thủ tỉnh Bạc Liêu. Đây là điều kiện giúp ông cung cấp nhiều thông tin quý báu cho cách mạng.
Ngày 21-4, khi tổng thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức, tại Bạc Liêu, địch bố phòng rất kỹ, chúng tập trung vũ khí, lực lượng, tăng cường tử thủ. “Lúc này, tỉnh trưởng Nguyễn Ngọc Điệp dự tính sẽ đánh nhau sống chết với Quân giải phóng. Trong khi đó, Tỉnh ủy Bạc Liêu đánh giá sát tình hình, xác định tư tưởng tiến công, sẵn sàng chiến đấu giành thắng lợi. Càng gần tới ngày 30-4, tình hình chiến sự diễn ra căng thẳng hơn nên Tỉnh ủy quyết định Bạc Liêu giải phóng bằng ba mũi giáp công”, ông Lâm Tuấn Kiệt, nguyên Chính trị viên Thị đội Bạc Liêu, nhớ lại.
Theo bà Huỳnh Thanh Hoa, Chủ tịch Hội Nạn nhân chất độc da cam tỉnh Bạc Liêu, lúc đó giữ cương vị Bí thư Thị đoàn Bạc Liêu: “Ngày 28-4, ông Lê Quân, Đặc phái viên Khu ủy Khu Tây Nam Bộ vào chùa Vĩnh Đức chỉ đạo đêm 29-4 nổ súng tiến công. Tuy nhiên, sau khi nắm được diễn biến tình hình của đại tá Nguyễn Ngọc Điệp, Tỉnh ủy nhận định, nếu chúng ta tấn công mạnh về chính trị và binh vận có thể địch sẽ đầu hàng, Bạc Liêu giải phóng không đổ máu. Do đó, Ban chỉ huy quyết định không tấn công bằng quân sự”.
Sau khi bàn bạc thống nhất, 7 giờ ngày 30-4, từ chùa Vĩnh Đức, phái đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc Giải phóng tỉnh Bạc Liêu gồm ông Lê Quân, ông Trần Thanh Hồng (lãnh đạo Cao Đài tỉnh Bạc Liêu, cũng là Phó chủ tịch Mặt trận Dân tộc Giải phóng tỉnh) và sư trụ trì Thích Hiển Giác trực tiếp vào dinh tỉnh trưởng gặp mặt, vận động đại tá quân đội Sài Gòn Nguyễn Ngọc Điệp bàn giao chính quyền cho cách mạng. Bà Huỳnh Thanh Hoa kể: “Lúc đó, Nguyễn Ngọc Điệp lớn tiếng: “Mấy ông rất liều lĩnh. Tại sao chúng tôi còn 12 ngàn quân trong tay mà mấy ông ra thuyết phục tôi đầu hàng là thế nào?”. Ông Lê Quân trả lời: “Tôi biết ông còn 12 ngàn quân trong tay nhưng ông có biết trong đó có bao nhiêu binh lính, sĩ quan của ông đã nhận giấy thông hành của mặt trận, và khi cần, chúng tôi ra lệnh thì có bao nhiêu người, bao nhiêu mũi súng chĩa vào ông hay không?”. Nguyễn Ngọc Điệp dịu giọng trở lại. Sau đó, ông Trần Thanh Hồng, Thượng tọa Thích Hiển Giác phân tích giữa đạo và đời, rằng đã đến lúc chiến tranh phải kết thúc nhưng làm sao không đổ máu, ít thương vong cho đôi bên. Đồng thời lấy dẫn chứng chiến thắng Tây Nguyên, Huế, Đà Nẵng... để thuyết phục. Cuối cùng, Nguyễn Ngọc Điệp chấp nhận đầu hàng”.
Đúng 10 giờ 30 phút ngày 30-4-1975, lá cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam chính thức tung bay trên nóc dinh tỉnh trưởng Bạc Liêu. Bạc Liêu hoàn toàn giải phóng không đổ máu, và là một trong những tỉnh ở Đồng bằng sông Cửu Long giải phóng trước nhất.
Hiện nay, ngôi chùa này còn là nơi thờ rất nhiều anh hùng, tướng lĩnh, những cán bộ đã đóng góp xương máu, công sức cho sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Đặc biệt, hơn 600 linh vị Bà mẹ Việt Nam anh hùng của tỉnh Bạc Liêu được ông Thích Quảng Thiệt sưu tầm và đưa về đây hương khói để tỏ lòng tôn kính.
KIÊN GIANG