QĐND - Nhà văn Nam Hà tên thật là Nguyễn Anh Công, sinh năm 1935 tại Đô Lương - Nghệ An. Ông là một trong những nhà văn đã đồng hành cùng cuộc chiến đấu của dân tộc ngay từ những ngày đầu đánh Mỹ, đã sinh tử cùng mảnh đất miền Đông Nam bộ để viết nên những bộ tiểu thuyết sử thi hùng tráng. Trong số những nhà văn Việt Nam viết tiểu thuyết, ông là người thuộc số ít, nếu không muốn nói là duy nhất, có số lượng tiểu thuyết sử thi áp đảo với liên bộ tiểu thuyết về mười năm chiến tranh với hơn 4000 trang: “Ngày rất dài”, “Trong vùng tam giác sắt” và “Đất miền Đông”.

Nói về những lý do khiến ông gắn bó với đề tài này, nhà văn Nam Hà chia sẻ: “Trong đời bộ đội của mình tôi đã trực tiếp tham gia chiến đấu. Kháng chiến chống Pháp tôi là một cán bộ chỉ huy quân đội, là thương binh. Kháng chiến chống Mỹ, tôi vẫn là người lính trực tiếp tham gia các chiến dịch, vừa là người viết văn trực tiếp quan sát cuộc chiến tranh từ nhiều phía, nghiền ngẫm và phát hiện những vấn đề bí ẩn của cuộc chiến tranh từ vĩ mô đến vi mô. Năm 1964, trước khi lên đường vào chiến trường cực Nam Trung bộ, đồng chí Trung tướng Lê Quang Đạo, Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị nói với tôi: “Vào trong ấy trước hết là viết ngắn, viết nhanh, phục vụ kịp thời, nhưng nhớ phải tích lũy để sau này viết dài về chiến tranh”. Trong các cuộc chiến tranh xưa nay, sau khi kết thúc, đều có nhiều tiểu thuyết sử thi như Tam Quốc diễn nghĩa của Trung Quốc, Chiến tranh và hòa bình của Nga. Trong cuộc nội chiến của Nga sau Cách mạng Tháng Mười phải kể đến Sông Đông êm đềm, Con đường đau khổ... Trong Thế chiến thứ 2 ở Liên Xô, hàng loạt tiểu thuyết sử thi xuất hiện như Khoảng trời Ban Tích, Mùa Xuân trên sông Ô Đe... Trong cuộc kháng Mỹ viện Triều của Trung Quốc có Thượng Cam Lĩnh... Tiểu thuyết sử thi khác với tiểu thuyết thông thường là những sự kiện lịch sử, sự kiện chiến tranh và những con người chủ yếu tham gia trực tiếp vào cuộc chiến tranh có một vị trí quan trọng và chủ yếu, tác giả phải tôn trọng nguyên tắc này, nhân vật được hư cấu theo nguyên mẫu, có khi là người thực. Người viết hoàn toàn có thể khám phá những bí ẩn giấu sau những sự kiện lịch sử, sự kiện chiến tranh với sự trung thực và khách quan. Mối quan hệ giữa sự kiện lịch sử, sự kiện chiến tranh với nhân vật là mối quan hệ hữu cơ, tác động và chi phối lẫn nhau, trong đó nhân vật giữ vai trò quyết định. Liên bộ tiểu thuyết sử thi của tôi về mười năm chiến tranh (1965 - 1975) được viết theo tinh thần ấy”.

Nhà văn Nam Hà. Ảnh: T.H

Trong ba bộ tiểu thuyết sử thi này, nhà văn Nam Hà đã tái hiện không chỉ cuộc chiến đấu của quân dân Khu 6 trong giai đoạn Chiến tranh Cục bộ, giai đoạn mà cả thế giới đều lo lắng, hồi hộp không biết Việt Nam có đứng vững trước sức mạnh quân sự khổng lồ của Mỹ hay không? Qua các nhân vật và bối cảnh, người đọc còn thấy được cuộc kháng chiến chống Pháp, cuộc chiến đấu khốc liệt của quân dân miền Nam sau năm 1954 đến cuộc Đồng Khởi năm 1960. “Trong vùng tam giác sắt” viết về giai đoạn Việt Nam hóa chiến tranh vô cùng ác liệt, ông chọn cuộc chiến tranh ở xã ấp để thể hiện, tập trung nhất, cô đọng nhất trong cuộc đấu trí, đấu lực về mọi mặt của cuộc chiến tranh. Trong tiểu thuyết này nhân vật ít hơn, vì vậy tính điển hình và tính cách nhân vật được đẩy lên cao, đặc biệt ông đã xây dựng thành công một nhân vật là sĩ quan Mỹ tiêu biểu cho tình hình nước Mỹ trong cuộc chiến tranh. Còn “Đất miền Đông” viết về bộ đội chính quy và những chiến dịch lớn, đặc biệt Chiến dịch Hồ Chí Minh, kết thúc chiến tranh. Đây là một tiểu thuyết hoành tráng về không gian, thời gian, diễn biến chiến tranh được đề cập thông qua hàng trăm nhân vật được xây dựng. Những vấn đề lớn của chiến tranh không chỉ của ta, mà của đối phương đã được tái hiện một cách trung thực, khách quan, sống động, các nhân vật cao cấp nhất của Mỹ-ngụy ở Sài Gòn đã trở thành những nhân vật văn học. Hai bộ tiểu thuyết “Trong vùng tam giác sắt” và “Đất miền Đông” ông đã viết trong hơn mười năm trời mới hoàn thành.

Mỗi nhà văn đi qua chiến tranh, cái còn lại là những tác phẩm mang đậm dấu ấn thời gian. Và tôi có cảm tưởng rằng, trở lại với đời thường, sau ngày hòa bình ấm áp, dường như nhà văn Nam Hà vẫn còn những nỗi ám ảnh không dứt về những tháng ngày bom đạn mà tuổi trẻ của ông đã cống hiến. Nhà văn Nam Hà kể lại rằng, trong một lần đến nước Mỹ, nhà thơ Phạm Tiến Duật đã nhìn thấy bức thư của ông viết gửi miền Bắc từ chiến trường đã bị thất lạc và hiện nay đang nằm trong bảo tàng quân đội Mỹ. Bức thư này đã đăng trên tuần Báo Văn nghệ. Đó là vào quãng thời gian năm 1967 ông đi thực tế ở hai tỉnh Bình Thuận và Ninh Thuận, cuối năm bị sốt rét nặng không về được, ông đã viết thư về cho Cục Chính trị quân khu báo cáo tình hình một năm đi công tác của mình. Thư gửi theo đường giao liên, biệt kích Mỹ bắn chết người giao liên và lấy được bức thư. Trong những năm ở chiến trường Khu 6 ông hai lần bị cháy rừng thiêu mất tài liệu, bản thảo. Năm 1968 tài liệu, bản thảo, thư từ giấu trong hang đá bị biệt kích Mỹ đổ quân lấy sạch. Mấy ngày sau bọn chiến tranh tâm lý lên máy bay L19 chiêu hồi ra rả: “Chúng tôi biết ông là một nhà văn của Quân Giải phóng, đang làm việc và sống hết sức khó khăn, cực khổ, chúng tôi mời ông ra với đồng minh, chúng tôi sẽ tạo điều kiện tốt nhất cho tài năng của ông phát triển”. Ông đang ngồi nghỉ, nghe vậy bèn cầm lấy khẩu AK trong tay anh giao liên nhằm L19 kéo trọn một băng đạn.

Có lẽ “cái vía” tiểu thuyết sử thi mạnh quá nên người ta quên mất rằng nhà văn Nam Hà vốn là một nhà thơ với một tác phẩm “để đời” từng vang dội trong suốt những năm tháng chiến tranh: Bài thơ “Chúng con chiến đấu cho người sống mãi Việt Nam ơi!”. Bài thơ này ông viết từ năm 1964 đến tháng 6 năm 1966 mới xong, được hoàn thành sau một trận thắng địch giòn giã, trong đó có một đại đội Mỹ bị tiêu diệt. Niềm vui thắng trận tạo nên cảm xúc mãnh liệt và ông đã hoàn thành bài thơ trong hai giờ sau ba năm thai nghén. Bài thơ khái quát lịch sử và truyền thống, vẻ đẹp của đất nước bằng những đoạn thơ giản dị, đẹp và sâu sắc, đi thẳng vào tình cảm của người lính nên rất nhiều người thuộc. Một năm sau chiến tranh, ông nhận được nhiều thư ở nhiều nơi trong cả nước yêu cầu ông chép bài thơ, có chữ ký để tặng họ. Ông nói rằng, đó là kỷ niệm sâu sắc và đẹp đẽ trong đời viết văn của ông.

Để có những bộ tiểu thuyết sử thi, nhà văn phải hy sinh cả tuổi thanh xuân để sống và chiến đấu ở chiến trường. Ông bảo rằng, đi qua chiến tranh, ông là người có lãi, vì thế, năm 2009, sau mấy chục năm cầm bút, nhà văn Nam Hà xuất bản cuốn sách cuối cùng trong đời viết văn của mình “Thời hậu chiến”. Cuốn sách viết về câu chuyện ở làng quê ông, về ông Trầm, một người lính quê ở Đô Lương, Nghệ An. Trong đó có cả những bi kịch, những mâu thuẫn của một trí thức sau chiến tranh khi mang trong mình chất độc da cam… Ông viết cuốn sách này trong vòng 60 ngày, đó cũng là thời gian về quê để xây lại nhà thờ họ. Ông viết như lên đồng, như một lời cảm ơn làng quê, mẹ cha, nơi ông đã sinh ra lớn lên cũng là để đóng lại chặng hành trình ông đến với văn chương, đến với cuộc chiến tranh và làm nhiệm vụ của một nhà văn chiến trường. Trong đó, ông cũng đề cập những quan niệm của mình đối với cuộc chiến tranh mà ông là một người trong cuộc, coi như đã hoàn thành sứ mệnh của mình đối với quê hương, bạn bè. Giờ đây, chiến tranh đã lùi xa, song đối với những nhà văn đã đi qua một thời chiến trận như ông thì câu chuyện chiến tranh chắc chắn sẽ không thể phai mờ trong ký ức, để “Ta sung sướng được làm người con của đất nước” (Chúng con chiến đấu cho Người sống mãi, Việt Nam ơi).

Trần Hoàng Thiên Kim