Là người trong cuộc, Trung tướng Phạm Hồng Cư, nguyên Chính trị viên Tiểu đoàn 42 (Tiểu đoàn Bình Ca) không khỏi bồi hồi khi nhớ về những năm tháng hào hùng đó.
SỐNG CHẾT VỚI CON ĐƯỜNG BÌNH CA-THÁI NGUYÊN
Tháng 9-1947, khi mới ngoài 20 tuổi, Phạm Hồng Cư được giao nhiệm vụ Chính trị viên Tiểu đoàn 42, Trung đoàn 147 (bảo vệ Bộ Tổng chỉ huy). Cùng về nhận nhiệm vụ có Tiểu đoàn trưởng Phạm Quang Thao (tức Vũ Phương), Tiểu đoàn phó Nguyễn Dương Hán. Cả ban chỉ huy tuổi đều còn rất trẻ, từ 21 đến 25. Lúc này, các cơ quan Trung ương Đảng, Chính phủ và Bộ Tổng chỉ huy đã đứng chân tương đối ổn định trên một địa bàn rộng lớn, liên hoàn gồm 5 huyện: Sơn Dương, Chiêm Hóa (Tuyên Quang); Đại Từ và Định Hóa (Thái Nguyên) và huyện Chợ Đồn (Bắc Cạn), gọi là An toàn khu.
“Khoảng 12 giờ ngày 7-10-1947, khi chúng tôi đang ăn cơm, có một sĩ quan liên lạc của Bộ Tổng Tham mưu đi ngựa từ bìa rừng ra gọi rất to: “Chính trị viên Hồng Cư, Tiểu đoàn trưởng Vũ Phương ra nhận lệnh”. Tôi vội vã chạy ra, đứng nghiêm chào và được nhận một bì thư. Khi mở ra là một cái lệnh được viết bằng tay, ở dưới ký tên “Văn”. Nội dung bức lệnh chỉ đúng một câu: “Tiểu đoàn 42, sống chết với con đường Bình Ca-Thái Nguyên”. Mệnh lệnh ấy đến tận bây giờ khi nhớ lại với tôi cứ như là một lời hịch chứ không phải là mệnh lệnh quân sự. Giao nhiệm vụ cho tiểu đoàn sống chết với con đường Bình Ca -Thái Nguyên, là một lời kêu gọi của Tổ quốc...”-Trung tướng Phạm Hồng Cư nhớ lại.
Trung tướng Phạm Hồng Cư kể chuyện bộ binh ta lần đầu tiên bắn chìm tàu giặc trên sông Lô. Ảnh: Đức Đạt
Ngay sau đó, ban chỉ huy tiểu đoàn phân công nhau đi động viên bộ đội tại các lán. Hình ảnh đầu tiên đập vào mắt Phạm Hồng Cư là anh em Trung đoàn Thủ đô mới ở miền xuôi lên Việt Bắc, chưa quen với khí hậu bị ngã nước, ghẻ lở, nhiều người bị sốt rét, nằm đắp chăn run bần bật... Kìm nén cảm xúc, Chính trị viên Phạm Hồng Cư nói: “Chú ý! Nghe lệnh anh Văn”. Vừa nghe đến đó, tất cả các chiến sĩ đều ngồi dậy. Khi đọc xong, mọi người dường như quên mệt mỏi cùng đứng dậy biểu lộ quyết tâm sẵn sàng lập công.
Theo Trung tướng Phạm Hồng Cư, nhận rõ tầm quan trọng của nhiệm vụ và tình hình cấp bách, tiểu đoàn đã ra lệnh cho các đại đội thu quân về địa bàn của mình và cho là m lễ bế mạc lớp bổ túc tiểu đoàn trưởng chiều 8-10. Ngay đêm đó, mọi người trở về đơn vị cũ. Việc quan trọng nhất là bố trí trận địa ở bến Bình Ca như thế nào để bắn được tàu chiến địch, vừa ngăn chặn được quân đổ bộ. Trang bị, vũ khí của đơn vị rất yếu, chỉ có ít súng trường, mỗi trung đội có 1 trung liên cũ; còn thì dùng đại đao, bom, mìn, lựu đạn. Cuốc xẻng cũng rất ít, thường phải mượn của dân để làm công sự. Tuy nhiên, do tầm quan trọng của trận đánh, lần này, tiểu đoàn được trang bị một khẩu bazoca do quân giới Việt Nam chế tạo. Đây là vũ khí duy nhất của tiểu đoàn để làm nhiệm vụ bắn tàu chiến địch trên sông, một việc hết sức mới mẻ đối với tiểu đoàn và có lẽ đối với cả toàn quân.
TRẬN ĐẦU TIÊN BẮN CHÌM TÀU ĐỊCH
Ngay trong ngày 8-10, các đồng chí chỉ huy tiểu đoàn, đại đội đã cùng nghiên cứu thực địa với trung đội trưởng và xác định việc bố trí trận địa, phương án tác chiến. Đó là, dùng một tiểu đội bazoca bố trí ven đồi sát bờ sông chuẩn bị đánh tàu địch, 2 tiểu đội khác bố trí trên vành đai sát Đường 13A cách bến phà khoảng 200m chặn đánh quân địch đổ bộ. Khi bắn tàu chiến xong, trận địa bờ sông rút về trận địa chính, do đó trung đội phải làm sẵn công sự cho anh em. Tiểu đội 3 do đồng chí Trần Chất làm Tiểu đội trưởng và Đỗ Văn Kim làm Tiểu đội phó được vinh dự nhận khẩu bazoca. Chỉ huy trung đội là đồng chí Vũ Phương (trùng tên với tiểu đoàn trưởng). Đồng chí Vũ Phương đã được học sử dụng bazoca ở trường nên được trao nhiệm vụ trực tiếp chỉ huy mặt trận bờ sông. Tiểu đoàn quyết định cử đồng chí Minh Sơn, Đại đội phó, trực tiếp chỉ huy trận đánh quân đổ bộ. Tiểu đoàn trang bị thêm cho trung đội súng trường, bom và lựu đạn.
Ngày 10-10, việc bố trí xây dựng trận địa đã hoàn thành, chỉ huy tiểu đoàn xuống kiểm tra thấy an tâm vì bazoca được đặt ở ven đồi cao hơn mặt sông một mét, cây cối rậm rạp, địch khó phát hiện, các tổ súng trường ở trên đồi có công sự tốt và được che kín lại có đài quan sát ở một miếu thờ phát hiện được tàu địch ở cự ly hơn 1km. Trận địa chính của trung đội cũng được làm tốt, nhất là việc chôn giấu, ngụy trang bom mìn rất khéo.
Từ sáng sớm 12-10, máy bay địch thám thính dọc sông Lô nhưng không phát hiện trận địa của bộ đội ta. Khoảng 16 giờ, tàu địch xuất hiện, chiếc đi đầu lọt vào tầm bắn. Tổ bazoca bắn nhưng cả hai phát không trúng mục tiêu. Tổ súng trường đồng loạt phát hỏa hạ gục một số tên trên boong tàu. Địch bắn trả dữ dội làm cây cối gãy đổ ngổn ngang. Trung đội trưởng Vũ Phương bình tĩnh cho chỉnh lại súng, vừa lúc tốp tàu địch thứ hai lọt vào tầm bắn. Phát đạn thứ ba bắn trúng thân tàu. Chiếc LCVP bốc cháy, nghiêng ngả, cố vọt lên khoảng 1km thì chìm hẳn. Các chiến sĩ tổ bazoca bị ù tai và bỏng vì hàm ếch đặt súng quá chật, cơ số đạn lại ít, tiểu đội đành rút lui để bảo toàn lực lượng. Đây là lần đầu tiên bộ binh ta bắn chìm tàu chiến địch.
Ngày 13-10, quân địch tiến về phía Đa Năng, cho tốp lính da đen đi trước dò đường. Chờ địch đi lọt vào trận địa, bất ngờ bom, mìn, lựu đạn, súng các loại đồng loạt phát nổ. Gần 20 tên chết tại chỗ. Địch cụm lại, bắn điên loạn vào trận địa ta. Quân ta vừa bắn vừa hô xung phong. Địch vội vã đưa những tên bị thương xuống tàu tháo chạy. Ta thu một trung liên, hai khẩu cạc-bin Mỹ, một số thùng đạn và quân dụng. Hai trận đánh ngày 12 và 13-10-1947, Tiểu đoàn 42 giữ vững cửa ngõ phía tây An toàn khu.
Chiến thắng Bình Ca được Ban Thường vụ Trung ương Đảng kịp thời nêu gương trong bản Chỉ thị “Phải phá tan cuộc tấn công mùa đông của giặc Pháp”. Một vinh dự lớn nữa đến với tiểu đoàn là sau Chiến dịch Việt Bắc, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã gửi thư khen tiểu đoàn: “Trận Bình Ca, Tiểu đoàn 42 đã đánh lui một trận đổ bộ của giặc, xung phong cướp súng, bắn chìm pháo thuyền, ghi một chiến công đầu tiên, mở đầu cho những chiến công rực rỡ khác trên sông Lô...”. Lời khen này đã được thêu trên lá cờ chiến thắng của tiểu đoàn. Từ đó danh xưng Tiểu đoàn Bình Ca mãi mãi là niềm tự hào, là truyền thống vẻ vang, là tình cảm sâu sắc gắn bó với các thế hệ cán bộ, chiến sĩ của tiểu đoàn trong mọi nhiệm vụ trên suốt chặng đường trường chinh đánh Pháp, đánh Mỹ và cho đến tận ngày nay.
NGÔ DUY ĐÔNG