 |
Ông Phan Mỹ
|
Tháng 8-1947, đang công tác bên Bộ Quốc phòng, Phan Mỹ được chuyển sang làm Chánh văn phòng Chủ tịch Phủ. Bác Hồ gọi ông là Chú Bảy. Hơn 20 năm gần Bác, ông là hình mẫu về học tập, noi theo tấm gương của Người về đạo đức, tác phong... Và có cả giai thoại vui về ông, đôi khi do chính ông... phịa ra góp thêm niềm lạc quan giữa đời thường còn nhiều gian khó.
Có chí thì nên
Ca dao ta có câu: “Trời nào có phụ ai đâu/ Hay làm thì giàu, có chí thì nên”. Nổi tiếng “có chí” là trường hợp hai anh em Phan Anh, Phan Mỹ, tức ông Bảy (1914-1981).
Sinh quán làng Tùng Ảnh, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh, một vùng quê nổi danh “địa linh nhân kiệt”, hiếu học nhưng nghèo khó, Phan Mỹ lên 7 tuổi sớm mồ côi mẹ, cùng anh theo cha Phan Điện ra Bắc Hà bán chữ nuôi hai con ăn học. Trong máu thịt quê hương thấm đượm tinh thần yêu nước thương dân, thầy đồ Điện căm thù thằng Tây đô hộ, không đội trời chung với lũ quan lại tham tàn địa phương. Trong quyết định tha hương, thầy chọn con đường cho các con, hy vọng lần ra lẽ phải, bênh vực người nghèo, mở mang dân trí…
Tâm nguyện của cha được hiện thực trọn vẹn. Anh, rồi em vào Đại học Luật Đông Dương, ra làm “thầy cãi”, viết báo để bênh vực lẽ phải, bảo vệ dân lành. Cùng hăng hái tham gia các công việc có ích, hoạt động trong các tổ chức mà thời đó về danh nghĩa được coi là phụng sự cho dân, cho nước. Phan Anh giữ chức Bộ trưởng Bộ Thanh niên trong Chính phủ Trần Trọng Kim. Vừa làm vừa nghe ngóng tình hình, cả hai anh em đều đã sớm tìm đến với Mặt trận Việt Minh, hoạt động công khai hoặc bí mật.
Bác Hồ tin dùng trí thức. Luật sư Phan Anh giữ chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng trong Chính phủ kháng chiến công bố tại phiên họp đầu tiên của Quốc hội khóa I ngày 2-3-1946. Rồi theo yêu cầu công việc, ông lần lượt làm Bộ trưởng: Kinh tế, Công thương, Thương nghiệp, Ngoại thương, và nhiều chức danh khác như Phó chủ tịch Quốc hội, Phó chủ tịch Hội đồng Hòa bình thế giới, Chủ tịch đầu tiên của Hội Luật gia Việt Nam… Ông mất năm 1990 tại Hà Nội.
Ông em Phan Mỹ “thầm lặng” hơn, nhưng tham gia công tác bí mật rất sớm tại Hà Nội. Sau ngày 9-3-1945 Nhật đảo chính Pháp, ông bị lộ, tổ chức đưa lên chiến khu giúp công tác chuẩn bị Tổng khởi nghĩa. Tại đây ông được dịp gặp Bác Hồ và các vị lãnh đạo khác như Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp…, nhiều Bộ trưởng mà sau này thời ATK ai cũng quý mến, khen ngợi với tên gọi thân mật ông Bảy-anh Bảy-cậu Bảy-tay Bảy… biệt tài xoay xỏa, tận tụy trong mọi việc chỉ với chức danh Chánh văn phòng Chủ tịch Phủ-Thủ tướng Phủ (sau này là Bộ trưởng Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ). Các vị không một ai quên, nhất là sau cái đận tháng 10-1947, địch hùng hổ tấn công lại phải vội vã rút nhanh khỏi ATK thần thánh, một tay “ông Chánh dân sự” đôn đáo tổng chỉ huy cả guồng máy quân dân chính đảng thuộc trung ương, địa phương vùng châu Tự Do tản cư rồi hồi cư… Một số gia đình nặng gánh được “Tổng chỉ huy”, “tướng bảy lon” đưa cả tiểu đội đến từng nhà cõng trẻ con, dìu người già… vào rừng sâu, lên núi cao.
Liều thuốc cứu bạn
Trong cuốn sách “Văn phòng Chính phủ 56 năm xây dựng và phát triển”, nguyên Bộ trưởng Bộ Giáo dục, Tư pháp đầu tiên Vũ Đình Hòe, bạn học cùng trường Luật của ông Bảy, có kể câu chuyện làm người đọc không thể không suy ngẫm đến nhiều ý nghĩa về Bác Hồ và người giúp việc của Người. Chuyện một kỷ niệm ông không bao giờ quên với người bạn tốt và tấm lòng bao la của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Khoảng cuối năm 1950, Bộ trưởng Bộ Giáo dục Nguyễn Văn Huyên, người ngoài Đảng làm đơn xin từ chức vì gặp khó khăn trong công tác. Bác Hồ biết, khuyên ông yên tâm và gọi một số cán bộ trong Đảng ủy đoàn của Bộ giải thích, nhắc nhở về bài học vỡ lòng của Các Mác: Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Đảng viên chỉ là số ít phải thực tâm đoàn kết với hàng triệu triệu người ngoài Đảng mới đưa được cách mạng đến thắng lợi…
 |
Bác Hồ, bà Tạ Thị Trinh, đồng chí Phạm Văn Đồng, ông Phan Mỹ (người đầu bên phải sang). Ảnh tư liệu
|
Với ông Hòe tình hình còn nặng nề hơn: mất ăn, mất ngủ, người bơ phờ, đành phải làm đơn với ý định từ chức. Ông Mỹ được tin đến thăm. Xem đơn, nghe kể, ông Mỹ an ủi: “Ừ, thế thì quá lắm! Hòe này, hôm nay mình đến với cậu còn có cái này, chắc chữa được bệnh cho cậu đây!”. Ông đặt nhẹ tấm danh thiếp của Bác vào tay ông Hòe có dòng chữ: “Chúc chú Hòe mạnh! Có miếng sâm đây, chú mài ra mà uống”.
Ông Hòe, bật dậy nghẹn lời: “Bảy ơi, mình khỏi bệnh rồi!”. Ông Hòe về sau hồi ức: “Quả thật mấy chữ và món quà của Bác đã cứu tôi sống lại”. Ông đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ Bộ trưởng.
Giai thoại về “Ngủ chuồng dê”
Năm 2007, dịp về nguồn thăm lại các địa danh xưa từ Sơn Dương sang Định Hóa, chúng tôi rất thích thú nghe ông Tạ Quang Chiến từng là cận vệ của Bác, bí thư chi bộ Ban kiểm tra 12 kể chuyện vui về các bộ trưởng, mỗi ông có biệt tài riêng, được mặc sức góp vui lúc gặp nhau, ngoài giờ họp Hội đồng Chính phủ. Bác Hồ, cụ Bùi Bằng Đoàn, Linh mục Phạm Bá Trực… cũng tích cực tham gia. Chẳng hạn như Phan Anh lẩy Kiều, Lê Văn Hiến hát bội, Tạ Quang Bửu kể tiếu lâm rất ăng-lê. Nghĩa là khi kể, ông tỉnh bơ, người nghe sau mới… thấm. Lần ấy, chuyện rằng…
Bên huyện Đại Từ (Thái Nguyên) có ông chủ trang trại kia nuôi dê giàu có, hãnh tiến, bợm đời. Một dạo lão quảng cáo khắp nơi: Mở cuộc đọ tài tìm người vô địch ở lâu trong chuồng dê. Kẻ hiếu kỳ, người tham tiền thưởng cao lặn lội tìm tới rất đông. Điều kiện giật giải quá dễ: trong chuồng dê nhà lão cả nghìn con, ba tháng không quét phân. Giữa chuồng rải chiếu hoa để ngồi. Đấu thủ ngồi đó đủ 30 phút đoạt giải quán quân được một chiếc đồng hồ đeo tay chính mác Swiss. Bên tỉnh Tuyên có một vị đang cần giờ giấc chính xác, quyết một phen vượt đèo De sang đọ sức. Kết quả: Không một ai vào chuồng chịu nổi mùi hôi thối quá 5-7 phút. Vị nhà ta vào được vài chục phút cả chuồng dê đã nhớn nhác, rồi phá chuồng… Nguyên do vì ông ta lăn ra ngủ, ngáy, đến dê cũng không chịu nổi cái thứ mùi hôi và tiếng ngáy dội lại từ giữa chuồng…
Ông Bộ trưởng phớt ăng-lê dừng câu chuyện đưa mắt nhìn về phía người nghe xem phản ứng thế nào thì bất ngờ, Chánh văn phòng Phan Mỹ vụt đứng dậy, giơ tay, cười phá, hóm hỉnh: Đây, chiếc đồng hồ giật giải còn đây, thưa quý vị... Tiếng vỗ tay bật ra rầm rập và tiếng cười đến ứa nước mắt của mọi người vì hể hả mà thương, quý cả người kể lẫn người bị... kể.
Rồi lại đến đợt chống lụt vỡ đê Nhất Trai, Gia Lương, Hà Bắc (cũ) hè 1971, ông Bảy phụ trách Đoàn kiểm tra hàn khẩu đoạn vỡ 400 mét.
Đứng trên đê tận mắt thấy một tốp anh em lực lưỡng khóa tay nhau giăng hàng chặn dòng nước, một anh tuột tay là có thể bị dòng nước cuốn trôi, ông Bảy ào tới, các anh khác cũng noi gương ông nhào xuống nước ứng cứu... Thật hú vía! Khi về cơ quan, anh em thuật lại có ý khen ông. Ông cười hóm hỉnh nói lảng: Chết thế quái nào được! Tớ biết tỏng tòng tong là ổng Hà Bá ổng quen biết mình, không thể bắt mình xuống làm bẩn thủy cung...
Ông Bảy là thế đó-không muốn ai khen mình.
TRỊNH TỐ LONG