"Cuốn nhật ký bìa bết máu và thấm ố cả những trang sau được đơn vị gửi về gia đình cùng với giấy báo tử sau hơn một năm cậu Hợi hy sinh, tháng 11 năm 1973"- bà Đinh Thị Tuất, chị gái liệt sĩ nghẹn ngào kể...
Nhật ký của liệt sĩ Đinh Hữu Hợi là cuốn sổ nhỏ kích thước 10x15cm, mang nhiều thông tin quý giá về những tháng ngày chiến đấu của anh. Phần chính của cuốn nhật ký gồm 26 bài thơ được anh viết chủ yếu vào khoảng thời gian từ tháng 3-1971 đến đầu năm 1972.
Phía sau cuốn sổ là phần ghi nhớ, ghi chép những điều quan trọng về anh. Đó là ngày sinh, ngày nhập ngũ, ngày vào Đoàn, vào Đảng, những điểm dừng chân trên đường hành quân khi anh cùng đồng đội vượt Trường Sơn qua đất Lào như: Khăm-muộn, Xa-van-na-khẹt, Thà-khẹt, A-tô-pư… đến Tây Nguyên. Ngày 13-5-1972 cũng là mốc cuối cùng của cuốn nhật ký. Trải qua 38 năm, cuốn nhật ký của anh để lại, màu giấy úa vàng theo năm tháng, nét mực phai màu nhưng đọc nhật ký của anh mới biết, cuộc đời anh, dù ngắn ngủi nhưng phản ánh suy nghĩ chung của tuổi trẻ Việt Nam thời chống Mỹ hào hùng.
Lên đường ra trận với bao hoài bão
Chiến tranh lan rộng ra miền Bắc, đáp lời kêu gọi của Đảng, Bác Hồ, Đinh Hữu Hợi làm đơn tình nguyện lên đường nhập ngũ. Hợi lên đường vào ngày 27-3-1966, tại Đông Triều, Quảng Ninh. Chưa đầy một năm, ngày 3-11-1966, Hợi được kết nạp vào Đảng. Năm 1967-1968, Hợi tham gia chiến đấu tại Quảng Trị. Sau đó anh được đơn vị cử đi học tại Trường Quân sự Quân khu 3, ra trường biên chế về Trung đoàn 42, Quân khu 3. Từ đó đến ngày hy sinh, Hợi chỉ về thăm nhà có 2 lần vào năm 1967 và năm 1971, trước khi đi B lần thứ hai.
 |
Nhật ký của liệt sĩ Đinh Hữu Hợi. |
Lần theo những dòng chữ liệt sĩ Đinh Hữu Hợi ghi ở mặt sau cuốn nhật ký, mặc dầu không chi tiết, không ghi ký hiệu đơn vị nhưng chúng tôi tìm ra đơn vị của anh qua cuốn Lịch sử Trung đoàn 24, Sư đoàn 10. Những trận đánh, những địa danh anh ghi trùng khít với cuốn Lịch sử Trung đoàn 24. Ngày 1-11-1971, anh là một trong số 1.950 chiến sĩ được lệnh hành quân vào miền Nam chiến đấu, trong đội hình Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 42. Sau hai tháng hành quân, vượt Trường Sơn, qua đất Lào, anh cùng đơn vị đã đến địa điểm tập kết ở Ngã ba Đông Dương. Theo quy định của Mặt trận, Trung đoàn 42 đổi ngược thành Trung đoàn 24, mang mật danh "Đoàn Ba Vì" trực thuộc Mặt trận Tây Nguyên.
Trong nhật ký, anh ghi: "Ngày 15-1-1972 tới vị trí chốt Kon Tum - Điểm cao 902… Ngày 14-4-1972, giải phóng hoàn toàn thị xã Bình Long và vây chặt quân thù ở thị trấn Châu Thành; ngày 2-4-1972 giải phóng Đắc Tô - Tân Cảnh, bản thân chốt giữ ở cao điểm 759 phía Nam Đắc Tô…; ngày 2-5 đến Cao điểm 5; ngày 3-5 đến T4 (nghỉ lại); ngày 6-5 tới T6B; ngày 11-5 nghỉ bên bờ sông Pô Cô; ngày 12-5 qua đèo Chư Pảh; ngày 13-5 hành quân vào tiếp cận…".
Hành trình đi tìm em
Bà Tuất kể: "Hai năm sau ngày nhận được giấy báo tử, gia đình nhận được huân chương Chiến công giải phóng của cậu Hợi từ đơn vị gửi về. Bố tôi mừng lắm, đinh ninh "thằng Hợi còn sống, còn được thưởng huân chương đây". Năm 1975, khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, những người lính trở về đoàn tụ với gia đình. Hợi không có trong số những người đó. Cha tôi đau đớn ra bên sông gào thét: "Con ơi! Hợi ơi!"… Mẹ tôi khóc không ra nước mắt, nỗi đau ngấm tận trong tim bà". Nguyện vọng của cha, mẹ tôi lúc còn sống dặn lại: "Tìm bằng được em".
Từ năm 1984, bà Tuất chuyển vào Lâm Đồng công tác. Hằng ngày, ngoài thời gian lo công việc, bà luôn để ý nghe ngóng, tìm hiểu thông tin về phần mộ người em liệt sĩ. Trong giấy báo tử chỉ ghi "hy sinh tại mặt trận phía Nam", không rõ khu vực cụ thể nên rất khó tìm manh mối. Hễ nghe ở đâu có thông tin liên quan là bà Tuất lập tức đến thăm dò. Nhiều lần một mình bà lặn lội sang Gia Lai, Đắc Lắc, Kon Tum để hỏi thăm.
Một ngày cuối năm 1995, từ một nguồn tin, bà tức tốc lên đường với chỉ vẻn vẹn 500 nghìn đồng, số tiền người con trai gửi cho để ăn Tết. Sang đến Đắc Lắc, bà tìm gặp một người cháu họ, rồi hai người cùng đi sang Gia Lai. Tại đây, các đồng chí trong Bộ CHQS tỉnh Gia Lai đã nhiệt tình, sốt sắng lục tìm từng tập tài liệu, sổ sách lưu trữ. Và điều kỳ diệu đã xảy ra…
Kể cho chúng tôi nghe về những phút giây ấy, gương mặt của bà Tuất không khỏi bùi ngùi: "Khi nghe đứa cháu họ la lên "đây rồi, Đinh Hữu…" thì tôi khựng người đi, chân không còn đứng vững… Tôi ở lại Gia Lai 4 ngày thì cả 4 ngày ngồi bên mộ cậu Hợi. Sau này, qua thông tin từ người quản trang, tôi mới biết mộ cậu ấy đã được quy tập về đây đã 6-7 năm".
Từ Đà Lạt, trải qua một chặng đường dài, người phụ nữ ấy đã đem kỷ vật duy nhất còn lại về người em trai yêu quý trao tặng cho Cuộc vận động sưu tầm và giới thiệu những kỷ vật kháng chiến. Bà nói trong nước mắt: "Tôi về quê rồi lên tàu đêm. Xuống ga Hà Nội, tôi đã đến đây từ sáng sớm chờ trao kỷ vật này. Đối với gia đình tôi, nó là báu vật…".
Trần Thanh Hằng