Nếu có ngày mai anh trở gót

Quay về lãng đãng bến sông xa...

Chả biết được mấy tí về Hoàng Cầm. Ấy thế mà khi anh trở gót... lãng đãng, những ấn tượng đậm đặc về người – thơ ông cứ dội lên khắc khoải trong tôi.

Dịp Ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam 21-6-2003, Báo Sức khỏe và Đời sống mời lão làng cộng tác viên lên Thác Đa – Tam Đảo nghỉ ngơi đàm đạo. Các “lão tướng” – cách gọi của Tổng biên tập Lê Thấu, vừa an vị trên mấy nhà sàn thì điện tắt ngóm. Chà, cái chảo lửa vùng bán sơn địa hắt nóng lên mới ghê chứ! Tôi rủ nhà báo Cẩm Ly đi xem “Thi sĩ Hoàng Cầm” ở sàn nào. Thì may, trưởng nam của ông, nhà báo Hoàng Kỳ đi qua dưới đường...

Thi sĩ Hoàng Cầm (bên phải) và nhà văn Kim Lân.

 

Sau bữa đó, tôi cứ đến thẳng 43 Lý Quốc Sư vào lối sâu vài mươi mét gọi: Anh Kỳ ơi! Hoàng Cầm ló đầu trên cửa sổ tầng hai hỏi, rồi vứt chìa khóa xuống cho khách tự mở cửa, lên gác.

Căn phòng mươi mét đủ cả bếp, toi-let, giá sách, không bàn ghế, chiếu trải trên nền gạch hoa... Phố cổ mà. Ông mời khách ngồi lên giường bệnh viện đặt cạnh bên cửa sổ. Khách vô duyên định... ngồi, sau theo chủ - ngồi... đất.

Ông già còn đó nét lãng tử, khác người: Cao, gầy, tóc dài buông xõa, cặp mắt tinh nhanh, lanh lợi, đôi môi đỏ tươi, giọng nói chắc ngọt, bổng, trầm, khoan, nhặt tùy ngữ cảnh - đúng một thiên bẩm làm thơ, ngâm thơ.

Thần Thi

Theo ông, làm thơ có bốn cách: Trí thi, ngôn thi thì ý, tứ, câu, chữ vắt óc ta, cố ghép lại thành bài đầu đuôi đâu ra đấy. Tiếng Việt dễ tạo vần điệu nên người người làm thơ. Tâm thi thì “dây đàn tim” rung, tương thích với “sóng năng lượng” cảnh, người, sự việc mà “tức cảnh”, “xuất khẩu” nên thơ.

Thần thi xuất thần, đặc biệt. Có thể đang viết, bí, tắc tị, đột nhiên thơ, nhạc xuất hiện. Lá diêu bông là hiện tượng lạ, có một không hai. Diêu bông là cái thứ lá quái quỷ gì? Nó không có thật. Vậy là “thần” nào? Cánh làm thơ có anh “tán” ra thế này: “Thần” đã nhập hồn vào máu thịt mình từ khi còn trong bào thai, thương cảnh đau mất mát, quá cơ cực đường tình duyên, lại hạn văn chương mà thương một “lá diêu bông”. Chứ, nếu cứ thuận buồm xuôi gió, vi vu bát ngát, thì ông Hoàng sao “Cầm” nổi cái thứ “lá thần” ấy?

- Đưa tớ cái điếu bát, ông bạn!

Đang nói, ông ngưng bặt, bảo khách. Ông kéo một hơi dài, chiếc điếu bịt bạc kêu ròn tan, rồi phả khói khoái trá, kệ, khách ngạc nhiên chờ, lại còn lấy que thông nõ điếu, kéo một hơi nữa. Tương tự ở công đoạn điếu cày, rít lần một nín thở, xoay nõ điếu vào cái bô bắn phọt ra mồi thuốc, nõ thông lại rít lần hai kêu xói óc...

Nhà thơ tâm sự, không hiểu sao hồn thơ cứ về đêm mới “thao thức” trong người. Khi là bật ra ý thơ, bài thơ, lúc là cơn mê, giấc mộng, hoặc giả những ước vọng. Ông dứt khoát: Chưa bao giờ mình làm thơ ban ngày hay cố “nặn” ra thơ theo một chủ đề định sẵn. Cứ tự đến, tự đi, nên mình gọi nó là... “hồn”. Cũng phải nói thêm, phần nhiều cái “hồn” ấy mình chỉ cho là điều “cần” gia công thô, còn “đủ”, gia công tinh là công đoạn sau cảm xúc đã ghi ra giấy, phải công phu nâng cao chọn chữ, thay nhịp, cấu trúc cả bài... Cái thói quen này tớ bắt đầu từ nhỏ, khá sớm...

Váy Đình Bảng buông chùng

cửa võng

Chị thẩn thơ đi tìm...

Diêu bông hời...! Ới, diêu bông...!

Ông sống lại, tươi rói mối tình đầu đơn phương trong đầu cậu con trai lên tám Bùi Tằng Việt. (Cha nhà Nho đặt tên con: Tằng lấy tên thôn quê hương Phúc Tằng. Việt – huyện Việt Yên, Bắc Giang).

Ngày đó, nhà Việt phía trước quốc lộ 1, đàng sau ga xép Núi Tiết. Nhà có hàng xén của mẹ bên ngoài cửa, bên trong tủ thuốc Bắc của cha. Việt học, ở trọ trên Phủ Lạng Thương, chiều thứ bảy về nhà.

Lần ấy, đập vào mắt cậu học trò dáng hình cô gái đến mua hàng: Chiếc váy đen chùng phía trước. Nắng chiều chênh chếch nổi rõ đôi chân thon, tròn, trắng ngần kỳ ảo. Cô gái có lẽ đã linh cảm, đứng thẳng, quay lại nhìn cậu con trai. Đôi mắt đen thăm thẳm, hàng mi cong dài, đôi má ửng hồng, làn môi tươi đến lạ... Cậu bé bị hút hồn.

Rồi đó, cậu để tâm tìm người đẹp từ đâu tới. Thì là chị Vinh, bán quán nước chếch bên kia. Cậu lân la tìm dịp gần chị. Chị biết cậu mê đắm mình, lại thích trêu chọc, mấy lần làm cho cậu khóc. Kỳ thực, chị cũng quý cậu. Nhưng, buồn cười, chị nhận thư nó viết: Em gửi chị Vinh của em. Chị chị em em, nhưng chả thư tỏ tình thì là gì? Lại là bài thơ lục bát nữa mới ghê chứ! Một trang vở học trò kín thơ, viền quanh là hoa, bướm, vài ngọn núi sông, cả khóm cây đơn độc. Cái thằng có hoa tay, hát hay, có duyên nói chuyện... cả cái phố ga xép này xưa nay chưa ai được như nó.

Chị thì luôn đầu trò rủ bọn trẻ, nam nữ thanh niên tụ tập chỗ bãi trống sau ga vào các dịp Tết, đêm rằm để hát ví, làm liền anh, liền chị, trai gái bóng gió bằng các làn điệu trống quân, sa mạc, quan họ giao duyên...

Mối tình đơn phương, âm thầm mà mãnh liệt ấy kéo dài bốn năm. Tới một chiều đông, Việt thấy chị Vinh đi ra phía cánh đồng liền bám theo. Chị men theo bờ ruộng lúa mới gặt còn trơ gốc rạ, tìm tìm cái gì đó ở mỗi bụi cây lúp xúp bên bờ. Vẫn chiếc váy vùng Đình Bảng cạp gấp nhiều ly buông chùng như cánh võng, tóc buông xõa ra sau dài, kín gần khuỷu gối, uốn lượn như làn sóng, tỏa mùi hương nhu, bồ kết... sức quyến rũ càng tăng ở thằng bé choai choai.

Bỗng, chị quay lại: “Ơ, sao cái thằng này cứ lẵng nhẵng theo tao mãi thế nhỉ?”. Mặt cậu nóng ra lại thấy ấm áp, dễ chịu vô cùng... Rồi một bụi cây nữa, chị cúi xuống, vạch lá tìm tìm. Cậu bước tới: “Chị tìm cái gì đấy, chị Vinh?”. Chị quay ngoắt lại, xoáy mắt nhìn cậu, đôi môi cười tươi như trêu cợt, rất bí ẩn kiêu sa: “Ừ, chị đi tìm cái lá... ấy đấy! Đứa nào tìm được cái lá... ấy – ta gọi là chồng!”. Thằng bé nghe hết mấy tiếng “ta gọi là chồng” thì chết lặng, tâm hồn bay bổng, phiêu diêu trên chín tầng mây... Chị nắm chặt tay cậu, kéo đi trên cánh đồng, tới khi sương chiều lan tỏa, se lạnh, chị bảo:  “Thôi, ta về đi em!”.

Sáng hôm sau cậu lại lên tỉnh, xa chị từ đó: Chị đi lấy chồng...

Tôi hỏi “Lá diêu bông” là “hồn chị Vinh” hiện về hay sao? Hoàng Cầm cười phá lên:

- Có thế mới nên chuyện Thần thi. Trước “Đổi mới” 1986 bài thơ chưa được công bố. Trái đất tròn, chị em đã gặp nhau ở Huế, cùng chụp hình, chị ngoài bảy mươi, em tóc bạc trắng...

... Chị ba con

Em tìm thấy lá

Xòe tay phủ mặt chị không nhìn

Từ thuở ấy

Em cầm chiếc lá

Đi đầu non cuối bể

Gió quê vi vút gọi

Diêu bông hời...! Ới, diêu bông...!

Nặng gánh đời-tình

Ông chẳng giấu điều gì, rất thành thực- những điều mà thói thường người đời muốn giấu: Yêu đương riêng tư. Chẳng hạn, ông bảo: “Trai gái chơi bời không kể, nhá! Sâu nặng với nhau là năm. Năm bốn chín khổ nhất của đời lính trên chiến khu Việt Bắc lại là năm bà Hoàn vợ đầu ông mất cùng đứa con lên ba vì đói và rét. Nhà tản cư lên Thái Nguyên, mẹ con nhịn ăn, nhịn mặc để đủ bữa cơm cháo, đủ ấm cho bố mẹ chồng. Cuộc tình sâu nặng thứ hai, cô Trưởng ban Tuyên huấn Huyện ủy tự nguyện hiến dâng mong sao Hoàng Cầm giải thoát nạn ép duyên với người cô không yêu. Em sẵn sàng bỏ chức vụ đi làm cấp dưỡng cho Đoàn văn nghệ kháng chiến Liên khu Việt Bắc của anh, hoặc về Phú Bình nuôi cha mẹ già, con nhỏ thay chồng. Nhưng rồi chiến sự nổ ra. Đoàn văn nghệ được lệnh rút. Một cuộc tình suốt đời thi sĩ ân hận. Lại mối tình dang dở với Tuyết Khanh sinh Kiều Loan... Nhưng ông kể, nỗi đau vò xé thân xác và tâm hồn con người, nặng nề nhất là khi bà Hoàng Yến mất (năm 1985). Từ đỉnh điểm này hai năm sau ông bị hoảng loạn, nhiều lần chui xuống gầm giường... Rồi trầm uất, cả ngày im lặng. May mà có anh em văn thơ, lại tiếp là chuyện phục hồi của Hội Nhà văn từ năm 1988 mà Hoàng Cầm “sống lại”, lại viết... Toàn thơ tình yêu, yêu từ lên tám: Ngây thơ, đắm đuối, si tình, trung thực, lại tiếp tục viết về yêu, đòi yêu lấp lòng trống vắng.

Ngày ấy ông thổ lộ với tôi: Đã viết “quảng cáo” tìm vợ trên Báo Phụ nữ là năm 2003 (sau ngày bà Hoàng Yến đi xa đã 18 năm). Ông tuổi 81 – giá như có hồi âm tích cực, biết đâu ông chưa trở gót?

Hoàng Cầm thích nhận xét của Tô Hoài bảo thơ mình là cái... giống phong tình. Càng khoái trá với cái soi mói của lão nhà văn Kim Lân: Tuổi ấy mà nghe quan họ Thúy Cải, Thúy Hường... tưng tưng nây nẩy – cái mắt lão ta cứ ve vé xanh...

Thơ tình Hoàng Cầm là “chính hiệu Made in Vietnam” không lai tạo, rất e ấp, trí tuệ:

Gái Tam Sơn đờ đẫn môi trầu

Ngực yếm phập phồng bưởi ngọt...

... Nâu sồng nén nghẹn bút thanh xuân...

Hoàng Cầm tên thật: Bùi Tằng Việt. Sinh ngày 22-2-1922 tại xã Song Hồ, Thuận Thành, Bắc Ninh. Hoạt động trong các tổ chức cứu quốc từ 1944. Trưởng đoàn Văn nghệ của Tổng cục Chính trị từ năm 1952. Trưởng đoàn kịch nói TCCT năm 1955. Tham gia sáng lập Hội Nhà văn Việt Nam năm 1957; Ủy viên BCH Hội.

Sáng tác thơ, kịch, truyện ngắn từ 1939. Sáng tác thơ đã xuất bản: 1948 Bên kia sông Đuống; 1959: Về kinh Bắc; 1973: Men đá vàng; 1959: Mưa Thuận Thành; 1993: Lá diêu bông; 2000: Đến từ hư không;    1993: Trương Chi... Năm 2007 nhận Giải thưởng Nhà nước về VHNT. Ông mất ngày 6-5-2010 tại Hà Nội.

Trịnh Tố Long