QĐND - Sáng sớm ngày 28-1-1941 (tức ngày Mồng Hai Tết Tân Tỵ), Bác Hồ được 5 chiến sĩ cách mạng Việt Nam dẫn đường và tháp tùng khởi hành trở về Tổ quốc. Khoảng 12 giờ trưa, cả đoàn đến dãy núi Phia Sum Khảo, nơi có cột mốc số 108 trên biên giới Việt-Trung, thuộc xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng. Đây là chuyến về Tổ quốc của Bác Hồ sau 30 năm bôn ba hải ngoại. Họa sĩ Trịnh Phòng đã thể hiện rất thành công cảnh và người trong bức tranh “Bác Hồ về nước” của mình. Bài viết này chỉ nói về người gánh hành trang trong bức tranh đó.
Chúng tôi tìm về thôn Văn La, xã Lương Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Anh Lê Văn Lợi-chủ nhân của xưởng cơ khí nhỏ chuyên gia công cửa sắt và sửa chữa máy móc, dụng cụ gia đình đặt cạnh nhà, sát Quốc lộ 1A, tạm dừng công việc và niềm nở đón khách. Anh là cháu nuôi, cũng xem như là con nuôi của bà Nguyễn Thị Cúc (sinh năm 1907, quê gốc thị trấn Ba Đồn, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình). Bà Cúc là vợ của người gánh hành trang trong số 5 người dẫn đường và tháp tùng Bác Hồ về nước trong bức tranh của họa sĩ Trịnh Phòng mà nhiều tài liệu lịch sử đã từng nhắc tới. Ông là Phạm Văn Lộc (chứ không phải là Hoàng Văn Lộc mà nhiều văn bản báo chí đã ghi), sinh năm 1900, quê gốc cùng địa chỉ của anh Lê Văn Lợi bây giờ. Anh Lê Văn Lợi đã khẳng định điều đó và đưa cho chúng tôi xem nhiều tranh, ảnh, tài liệu mà anh đã lưu giữ bấy lâu rồi kể chuyện về người ông, người mẹ, người bà nuôi của mình trong những nỗi xúc động chân tình.
Sum họp và biệt ly
Ông Phạm Văn Lộc tên thật là Nguyễn Văn Ty. Những năm 20 của thế kỷ trước, cùng nhiều người khác, gia đình ông Nguyễn Văn Ty tha phương cầu thực tận nước Xiêm La (tức Thái Lan). Tại đây, ông đã gặp và yêu cô gái Nguyễn Thị Cúc. Cả hai người đều là người trong tổ chức Thanh niên cách mạng đồng chí hội tại Đông Bắc Xiêm La lúc bấy giờ.
Năm 1928, ông Thầu Chín (tên gọi lúc đó của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh) nhận thấy vẻ lanh lợi, tháo vát, giỏi võ và biết cả việc bốc thuốc chữa bệnh nên vận động Nguyễn Văn Ty ở cạnh mình để giúp đỡ. Ông Thầu Chín đã cải tên Nguyễn Văn Ty thành Phạm Văn Lộc và giải thích, làm như thế để dễ hoạt động cách mạng.
Thấy tình yêu giữa anh Lộc và chị Cúc càng thắm thiết, gắn bó, ông Thầu Chín đã đứng ra tác thành để hai người thành vợ thành chồng.
Trong một lần đi đưa tài liệu trong tổ chức cách mạng, bà Cúc bị ngã xe đạp do mật thám rượt đuổi. Kịp hủy tài liệu mang theo nên bà Cúc không bị buộc tội, nhưng cái thai trong bụng do chấn động mà không giữ được. Từ đó, bà Cúc không còn khả năng làm mẹ.
 |
Bức tranh“Bác Hồ về nước” của họa sĩ Trịnh Phòng. |
Do nhu cầu phát triển cách mạng ở chính quốc, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc quyết định sang Trung Quốc gặp đại biểu các đảng để tiến hành hợp nhất thành Đảng Cộng sản Việt Nam (ngày 3-2-1930). Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc quyết định đưa ông Lộc theo cùng. Trước khi theo chân Bác, ông Lộc đã thổ lộ với ông Nguyễn Văn Bun (ông ngoại anh Lê Văn Lợi bây giờ), một Việt kiều tha phương cầu thực đồng cảnh ngộ như mình rằng, nếu vợ chồng ông có con thì cho bà Cúc một đứa để nuôi. Bởi vì ông lại ra đi, không biết khi nào có thể gặp lại vợ. Bạn đồng niên, đồng hương Nguyễn Văn Bun đồng ý. Thế là, ông Phạm Văn Lộc tạm biệt vợ, gồng gánh hành lý theo chân Nguyễn Ái Quốc sang Trung Quốc kể từ đó.
Đằng đẵng tìm chồng
Năm 1937, vợ chồng ông Nguyễn Văn Bun sinh con gái Nguyễn Thị Đòn. Thực hiện lời hứa với bạn, ông Bun trao bé Đòn cho bà Cúc nuôi. Nhưng do bận bịu với công tác, được một thời gian, bà Cúc phải trao lại cho cha mẹ đẻ của bé. Tuy nhiên, bà Cúc vẫn ghé thăm, chăm sóc bé Đòn những khi rảnh rỗi như là người mẹ nuôi của bé Đòn.
Trưởng thành, chị Nguyễn Thị Đòn kết duyên với anh Lê Văn Quang, một bạn trai Việt kiều. Sau ngày đó, bà Cúc về ở hẳn với vợ chồng anh Quang, chị Đòn. Cặp vợ chồng này có cả thảy 7 con, 4 trai, 3 gái. Cuộc sống đông con vô cùng lận đận, vất vả. Năm 1960, gia đình anh Quang, chị Đòn hồi hương về Việt Nam sinh sống. Họ trở về xã Lương Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình, nơi mà ngày xưa ông bà, cha mẹ mình ra đi vì miếng cơm, manh áo. Tháng 2-1965, Mỹ mở rộng chiến tranh leo thang ra miền Bắc. Anh Quang và chị Đòn mang đàn con sơ tán lên tận Thái Hòa, Nghĩa Đàn, Nghệ An. Vất vả quá, một thời gian, hai vợ chồng quyết định lên Quỳnh Châu sống để nuôi đàn con nhỏ. Thấy ở Thái Hòa có thể sống được nhờ làm vườn và tiền trợ cấp ít ỏi của địa phương đối với người già, bà Cúc chủ động xin người con nuôi ngày xưa của mình cậu bé Lê Văn Lợi, chưa tròn tuổi, ở lại cùng bà. Thế là, ở tuổi 61, bà Cúc lại có đứa cháu nuôi, cũng xem như là đứa con nuôi thân thiết, gắn bó với mình. Đau đáu trong tâm can bà Cúc là ông Lộc đang ở đâu?
Nhân khi Mỹ tạm ngừng ném bom miền Bắc, bà Cúc gửi bé Lợi cho hàng xóm, tay nải tìm đường ra Hà Nội để gặp Bác Hồ hỏi rõ tin tức về ông Lộc. Nhưng, Bác Hồ đang ốm nặng. Bà là ai, mọi người chưa biết rõ nên bà Cúc đành thất vọng trở về. Ngày 30-4-1975, đất nước hòa bình, thống nhất, vợ chồng anh Quang, chị Đòn dắt díu đàn con trở về bản quán ở Lương Ninh, Quảng Ninh, Quảng Bình. Bà Cúc và Lợi cũng về. Để mưu sinh, hai bà cháu che túp lều bên cạnh hố bom ở bến phà Quán Hàu để sống và bán nước cho người quá giang. Niềm hy vọng tìm chồng của bà Cúc tưởng như đã lịm tắt.
Nhưng, một ngày cuối tháng 5-1979, bà tìm đọc Báo Nhân Dân, số ra ngày 19-5-1979, chào mừng sinh nhật Bác Hồ. Mắt bà bừng sáng khi qua bài viết của đồng chí Vũ Kỳ, Thư ký riêng của Bác, có đoạn nói về bà và ông Lộc thời ở Xiêm La. Thế là, gom góp tiền bán nước kèm tiền bán đàn gà chọi còn nhỏ mà cu Lợi đang nuôi, được tất cả là 11 đồng 2 hào, hai bà cháu quyết tâm ra Hà Nội tìm đồng chí Vũ Kỳ để hỏi về chồng.
Đồng chí Vũ Kỳ vô cùng cảm động khi gặp hai bà cháu và kể lại những cống hiến lớn lao cho cách mạng của liệt sĩ Phạm Văn Lộc. Ông Lộc sau khi theo Bác sang Trung Quốc, luôn ở cạnh Người, nấu ăn, bảo vệ và chăm sóc sức khỏe Bác tận tình. Trong chuyến vượt biên giới để trở về Tổ quốc (1941), ông Lộc gánh tư trang cho Bác (đúng như hình ảnh trong bức tranh “Bác Hồ về nước” của họa sĩ Trịnh Phòng). Cho đến ngày giành được độc lập (2-9-1945), ông Lộc vẫn ở cạnh Bác Hồ làm người đầu bếp và cần vụ đắc lực, trung thành, tận tụy.
Cách mạng Tháng Tám thành công, trước khi trở về Hà Nội, Bác Hồ giao cho ông Lộc ở lại Chiến khu Việt Bắc đảm nhiệm chức giám đốc một phân xưởng cơ giới sản xuất, sửa chữa vũ khí. Khi Pháp phản bội, Chính phủ và Trung ương Đảng lên Việt Bắc chỉ đạo cuộc kháng chiến, ông Lộc lại được Bác gọi về ở cạnh Người để phục vụ cho mình và những đồng chí lãnh đạo Đảng, Chính phủ. Ngày 3-5-1948, ông Lộc qua đời do bị sốt rét ác tính. Chính bác Vũ Kỳ, bác Kháng (Cục trưởng Cục cảnh vệ Bộ Công an) khâm liệm ông Lộc, Bác Hồ đứng cạnh trong nỗi đau khôn tả. Sau khi chôn cất ông Lộc ở mô đất cạnh bờ suối xong, Bác Hồ mới ra về.
Năm mươi năm mới có được tin chồng cũng là lúc biết được chính xác chồng đã mất. Bà Cúc nức nở khóc xin được chít khăn trắng từ lúc ấy để để tang cho chồng-liệt sĩ Phạm Văn Lộc.
Sau ngày đó, bà Cúc được Chính phủ và Nhà nước đặt trong diện quan tâm đặc biệt. Hai bà cháu được chính quyền địa phương xã Lương Ninh làm nhà lợp ngói để ở. Sau đó, theo chỉ đạo của Tỉnh ủy Bình Trị Thiên, bà Cúc được đưa vào chăm sóc, nuôi dưỡng tại Khu dưỡng lão thành phố Huế. Bà còn được cấp sổ hưu và chế độ tem phiếu tương đương chức vụ phó, trưởng ty lúc bấy giờ, nhưng bà không hề sử dụng. Bà nói: “Tôi được Nhà nước nuôi như ri là sướng rồi”. Lê Văn Lợi theo về ở với cha mẹ đẻ và học hết chương trình phổ thông cấp 3. Sau đó, anh tình nguyện gia nhập quân đội, thành chiến sĩ trong đơn vị tăng-thiết giáp của Quân đoàn 2. Bà Cúc tuổi già, sức yếu qua đời tại Khu dưỡng lão Huế lúc 14 giờ ngày 6-5-1990. Sau khi về chịu tang bà cũng là mẹ nuôi, chiến sĩ Lê Văn Lợi trở về đơn vị nhưng sau đó bị tai nạn gãy chân khi đang làm nhiệm vụ. Được điều trị lành lặn nhưng sức khỏe không bảo đảm, anh Lê Văn Lợi xin ra quân và không hưởng một chế độ đãi ngộ đặc biệt nào. Bác Vũ Kỳ dặn, khi nào khỏe, ra gặp bác để bác xin việc cho. Nhưng anh Lợi khiêm tốn không trở lại Hà Nội nữa. Anh lấy vợ ở quê và lập một xưởng nhỏ để mưu sinh. Vợ chồng anh đều là đảng viên, được dân làng tin yêu, mến phục. Con trai sau của anh Lợi đang học lớp 10 Trường THPT Phan Đình Phùng ở Đồng Hới. Con trai đầu sau khi hết nghĩa vụ quân sự, trở về cùng giúp bố những công việc trong xưởng của gia đình. Thu nhập không đủ, con trai anh mỗi buổi tối phải về thành phố Đồng Hới làm bảo vệ trong một tổ chức kinh doanh dịch vụ giải trí. Hỏi anh, tại sao không xin những người có quyền chức ở địa phương cho con một công việc ổn định. Anh Lê Văn Lợi ôn tồn: “Ông bà, ba, mẹ nuôi của tôi có công lớn với cách mạng nhưng đã từ chối những quyền lợi Nhà nước đãi ngộ thì tôi phải học tập và noi theo”. Năm 2013, tại Thái Nguyên, ở ATK ngày xưa, Nhà nước đã xây đài tưởng niệm liệt sĩ Phạm Văn Lộc. Hằng năm, anh Lợi và gia đình thường ra phúng viếng. Anh Lợi đã cất bốc hài cốt bà Cúc đưa về đặt trong phần lăng, có mộ gió của ông Lộc để tôn thờ tại nghĩa trang làng mình.
Ghi chép của THANH HƯƠNG