Trong số 8.000 anh em quân giới ở Đồng Tháp Mười và Chiến khu Đ thời chống Pháp, cụ là một trong những người cuối cùng còn lại.
Tổng công trình sư chế tạo vũ khí và vạch những tuyến đường huyết mạch
Cụ Lê Tâm quê làng Niêm Phò (Quảng Điền, Thừa Thiên-Huế), sinh ra trong một gia đình danh gia vọng tộc. Thân phụ là Tiểu Cao Nguyễn Văn Mại (1858-1945), đậu Phó bảng năm 1889, Thượng thư triều đình Huế. Tên cha mẹ đặt cho cụ là Nguyễn Hy Hiền, còn cái tên “Lê Tâm”? Đó là vào năm 1949, cụ là một trong 7 cán bộ đầu tiên của Nam Bộ được Bác Hồ phong quân hàm đại tá, làm việc dưới quyền Trung tướng Nguyễn Bình. Lê Tâm là con một liệt sĩ, em mới 10 tuổi mà nhanh nhẹn, thông minh, làm liên lạc. Ở căn cứ, Nguyễn Hy Hiền thường dạy em học chữ, học hát. Thế rồi trong một lần trên đường giao liên, máy bay địch ào tới, một loạt đạn phóng xuống đã cướp đi đời em. Thương nhớ người thiếu niên dũng cảm, Nguyễn Hy Hiền lấy tên Lê Tâm từ độ ấy.
Kỹ sư Lê Tâm (giữa) trong chiến khu năm 1949.
Nguyễn Hy Hiền hồi nhỏ học Trường Pôn Be (Paul Bert) cùng Nguyễn Kim Thành, tức nhà thơ Tố Hữu và Hà Văn Lâu (sau là Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, vừa từ trần cuối năm 2016), rồi vào Quốc học Huế. Năm 1939, anh đậu thủ khoa tú tài toán và tú tài triết, nhận học bổng du học Pháp. Anh học trường quốc gia cầu đường Pa-ri, sau nghiên cứu thêm về toán-lý cao cấp ở Đại học Xoóc-bon (Sorbonne). Cuối năm 1941, anh cùng Nguyễn Khắc Viện, Phạm Huy Thông, Lê Văn Thiêm… thành lập Hội Những người Việt Nam tại Pháp. Năm 1946, phái đoàn Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa sang đàm phán ở Phông-ten-nơ-blô (Fontainebleau), anh được Hội chỉ định giúp đỡ đoàn, tìm tài liệu cho các ông: Phạm Văn Đồng, Tạ Quang Bửu, Phan Anh để đàm phán về kinh tế. Tháng 2-1947, theo lời kêu gọi của Bác Hồ, anh về nước, được giao nhiệm vụ Giám đốc Quân giới Nam Bộ, nghiên cứu chất nổ phá cầu và các cơ sở của địch trong nội thành. Thời kỳ này ở Chiến khu Việt Bắc, dưới sự chỉ đạo của kỹ sư Trần Đại Nghĩa, quân giới đã lập công xuất sắc, tự tạo được súng DKZ và SKZ cho bộ đội ta bắn chìm tàu chiến Pháp trên sông Lô. Ở Nam Bộ, kỹ sư Lê Tâm cùng các chiến sĩ quân giới tại Đồng Tháp Mười và Chiến khu Đ cũng độc lập nghiên cứu chế tạo mìn và súng đạn lõm SS có sức công phá mạnh. Sau này công trình của tập thể Quân giới Nam Bộ mà kỹ sư Lê Tâm có vai trò của một tổng công trình sư, đã được trao Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt đầu tiên năm 1996.
Cách đây khoảng 10 năm, cụ Lê Tâm bắt tay vào việc viết hồi ký với ý định: “… Không chỉ là những câu chuyện về bản thân và gia đình, đây là một góc nhìn về cá nhân, về đất nước, con người Việt Nam trong vòng 100 năm qua với biết bao thăng trầm mà tôi cũng chính là một nhân chứng lịch sử”. Nay cuốn hồi ký đã hoàn thành khoảng 700 trang bản thảo, có tựa là Tưởng rằng đã quên. Xin trích một đoạn trong hồi ký về thời kỳ cụ Lê Tâm làm việc ở công binh xưởng: “Ở xưởng mìn, tôi nghiên cứu chế tạo hai loại mìn lõm và hẹn giờ mà trước đó Nam Bộ chưa làm. Trong một lần đang lắp ráp bộ phận hẹn giờ để giao mìn cho người chiến sĩ đang nóng lòng chờ đợi bên ngoài, thì bỗng nhiên mìn nổ trong lòng bàn tay trái của tôi. Sau bốn ngày mê man, tôi tỉnh lại, được biết mình được cứu đưa về Bộ tư lệnh Khu 7. Cô Núi người chăm sóc tôi nói: Anh không chết là may. Anh chỉ còn cái đầu thôi… Thế rồi được điều trị một thời gian, tôi trở lại chiến khu tiếp tục công việc đang dang dở. Trái mìn được hoàn thiện, tôi nghĩ đến việc chế súng bắn đạn lõm. Khi bị kích nổ, đạn lõm tập trung năng lượng vào một luồng sức nóng tới 3.000 độ C, có sức chọc thủng được vỏ thép xe tăng. Súng có ký hiệu “SS”, chữ đầu S là súng, chữ S thứ hai là sắt. Súng sắt là súng bắn gần, cũng có nghĩa là súng của Rừng Sác. Ngày đó ta chỉ dùng súng SS đánh mấy trận đã làm quân Pháp kinh hồn bạt vía”.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp tiếp GS Nguyễn Xiển và kỹ sư Lê Tâm (giữa) tại nhà riêng, năm 1995.
Năm 1952, kỹ sư Lê Tâm cùng đoàn với các đồng chí Lê Duẩn, Lê Đức Anh vượt Trường Sơn ra Việt Bắc. Chuyến đi kéo dài nửa năm. Lên Việt Bắc, kỹ sư Lê Tâm nhận nhiệm vụ vạch tuyến, mở một số con đường phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ. Để làm việc này phải dùng rất nhiều thuốc nổ phá đá mở đường. Sau Chiến thắng Điện Biên Phủ, ông thiết kế, chỉ đạo thi công nâng cấp tuyến đường huyết mạch từ Mục Nam Quan qua Đồng Đăng đến Bắc Sơn, Đình Cả, Thái Nguyên. Tiếp đến, chỉ đạo phục hồi tuyến đường sắt Hà Nội-Mục Nam Quan; Hà Nội-Vinh. Năm 1956, Trường Đại học Bách khoa thành lập, theo lời mời của GS Tạ Quang Bửu, Hiệu trưởng đầu tiên của trường, ông về làm Chủ nhiệm Khoa Xây dựng, tiền thân của 3 trường đại học sau này là Xây dựng, Kiến trúc và Thủy lợi. Trước khi nghỉ hưu, ông là Cục trưởng Cục Đo lường, đồng thời là Ủy viên Ủy ban Khoa học kỹ thuật Nhà nước.
Quân sao má và em
Trích hồi ký Tưởng rằng đã quên: “Một ngày đầu năm 1955. Anh nhân viên văn phòng Tổng cục Đường sắt báo tin má từ Huế ra thăm tôi, đang ở nhà ông Đào Duy Anh, phố Hàng Chuối. Tôi mừng rỡ, nhảy lên chiếc xe Phượng Hoàng, mấy phút sau đã đến nơi. Một cụ già mở cửa reo: Anh Hiền đến rồi chị Năm ơi! Nhìn vào, thấy anh chị Đào Duy Anh và ba bà cụ trong phòng, có má. Tôi vội chào các bà và nhào vào lòng má, ngước nhìn má, hỏi nhỏ: Từ Huế ra, má có mệt không ạ? Má ôm tôi hỏi: Còn con thì sao, nghe nói con bị thương tật phải không? Rồi má và tôi đều khóc. Tôi hỏi má về tình hình gia đình sau 16 năm đi xa không tin tức gì. Tôi cố giấu không nói, quả thật tôi mấy lần suýt chết ở Nam Bộ và Việt Bắc, chỉ nói bây giờ con đang rất khỏe. Sau này, chị Hạnh-người đi với má cho biết, đêm hôm ấy tại nhà cụ Thân Trọng Phát ở phố Nguyễn Gia Thiều, má đã vào phòng tôi lúc đang ngủ để xem xét hồi lâu tay và chân của tôi, đúng là không phải tay chân giả, đến lúc đó má mới an lòng. Má chỉ hơi buồn vì tôi đã 35 tuổi rồi mà chưa lập gia đình. Người nói: Má sẽ ở lại với con cho đến khi thấy mặt cô con dâu của má. Thế rồi sau đó, tôi có lệnh chuẩn bị đi cải cách ruộng đất đợt 5, dự trù khoảng 6 tháng. Biết tin má nói: Con đi làm nhiệm vụ Nhà nước, má phải về thôi. Rồi má cùng cụ bà Tôn Thất Đàn thuê ô tô xuống Hải Phòng, lúc đó còn có những chuyến máy bay vận tải của Pháp đi Huế từ sân bay Cát Bi. Trước lúc chia tay, má dặn tôi: Lấy vợ đi, má ra bồng cháu cho... Cũng đúng 16 năm sau, má mất ở miền Nam mà không gặp lại người con trai còn lại duy nhất của má…”.
Súng Rừng Sác do quân giới Nam Bộ chế tạo, trưng bày tại Bảo tàng Quân khu 7. Ảnh tư liệu
Người mẹ của kỹ sư Lê Tâm luôn mong mỏi có cháu nội để bế bồng, đâu biết chỉ 2 năm sau ngày bà ra Hà Nội, con trai đã kết hôn với một thiếu nữ, như duyên trời định. Năm 1939, cụ Tiểu Cao ra ga Huế tiễn Nguyễn Hy Hiền vào Sài Gòn, để từ đó đi tàu thủy sang Pháp du học. Sợ con trai lạ nước lạ cái khi vào đất Sài thành, cụ đã viết thư gửi gắm con cho kỹ sư Nguyễn Xiển, lúc ấy đang làm ở Nha Khí tượng. Ông bà Nguyễn Xiển nhiệt tình đón tiếp cậu thủ khoa tú tài đang độ tuổi đôi mươi. Gần một tháng ở nhà kỹ sư Nguyễn Xiển chờ tàu đi Pháp, con gái đầu của ông bà là Thúy Nhàn mới 4 tuổi “có thói đi theo tôi bất cứ đâu, tôi lên thang gác thì chạy lên, rồi tôi xuống cô bé lại xuống. Bà cụ Nguyễn Xiển mắng yêu: Con bé này hư thật, anh Hiền đi đâu mày cứ quáng chân như vậy, để sau này mày lớn tao gả cho anh…” (trích hồi ký). 16 năm sau, Lê Tâm đến thăm ông bà Nguyễn Xiển, đang hàn huyên thì một cô gái bước vào. Cụ bà cười nói: Anh còn nhớ nó không, nó hay chạy theo anh đó. Thúy Nhàn bẽn lẽn chạy vút lên gác. Lê Tâm dạy ở Trường Đại học Bách khoa, rảnh rỗi thường đến thăm gia đình cụ Nguyễn Xiển và Thúy Nhàn. Một ngày giữa tháng 4-1956, Bác Hồ đến thăm gia đình kỹ sư Nguyễn Xiển thì gặp hai người. Bác hỏi bao giờ hai cháu tổ chức lễ thành hôn, rồi tặng một gói kẹo. Đầu năm 1957, đám cưới Lê Tâm-Thúy Nhàn được tổ chức, Bác đã gửi tặng hai cháu 100 đồng.
Ông bà Lê Tâm sinh hạ được ba người con trai. Bà Thúy Nhàn công tác ở Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, chẳng may bị bệnh qua đời khi mới 47 tuổi, để lại trong lòng ông niềm tiếc thương vô hạn. Trong một giấc mơ, ông gặp lại người vợ yêu, tỉnh dậy ông cầm bút viết luôn bài thơ “Gặp người khuất bóng”, có những câu thật cảm động: Bây giờ mới biết sắc không/ Là nguồn hạnh phúc muôn trùng em ơi/ Không, người không mất đâu người/ Chỉ hòa cùng với đất trời bao la…
PHẠM QUANG ĐẨU