Năm đó, ông đã 83 tuổi, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng khóa IV, V, VI, đại biểu Quốc hội các khóa VII, VIII, IX. Trong quá trình trò chuyện về những ngày gây dựng phong trào cách mạng trên quê hương, ông không kể gì nhiều về mình mà chủ yếu nói về người bạn chiến đấu, Chủ nhiệm Hậu cần Quân khu 5: Đồng chí Trần Kiên. Dưới đây, tôi ghi lại câu chuyện của ông...

Năm 1960, tôi vào chiến trường Khu 5 thì được biết anh Trần Kiên không tập kết ra Bắc mà bí mật ở lại hoạt động tại chiến trường Tây Nguyên. Anh tên thật là Nguyễn Tuấn Tài, quê Nghĩa Kỳ, Tư Nghĩa, Quảng Ngãi. Anh sinh năm 1920, hơn tôi 7 tuổi. Anh tham gia cách mạng từ năm 1936, vào Đảng tháng 7-1945, cũng năm đó nhập ngũ, làm đến Trung đoàn trưởng. Năm tôi vào, anh vừa được điều về làm Phó ban quân sự Quân khu 5. Tôi được bổ nhiệm Chính ủy trường Quân chính Quân khu, đóng ở Trà My, thường có quan hệ công tác với anh. Đến những năm 1962-1964, anh được bầu vào Thường vụ Khu ủy, Phó tư lệnh kiêm Chủ nhiệm Hậu cần Quân khu. Trên cương vị mới này, anh đã có những đóng góp quan trọng, bảo đảm hậu cần cho bộ đội trong điều kiện hết sức khó khăn, thiếu thốn.

leftcenterrightdel
Cục trưởng Trần Kiên (thứ hai, từ trái sang) cùng cán bộ ngành hậu cần trong một chuyến công tác ở Quân khu 5, năm 1973. Ảnh tư liệu

Quân khu 5 có hai trung đoàn chủ lực, anh hết sức tận tụy chạy từng ang gạo, thùng muối để nuôi bộ đội, vừa lo đánh giặc, vừa sản xuất xây dựng hậu cần tại chỗ. Chuẩn bị cho mỗi chiến dịch, Cục Hậu cần dự trữ 200 tấn gạo, đây là số gạo đã mua bí mật trong vùng địch. Bởi vậy trong quá trình chiến đấu, bộ đội được ăn no, sức khỏe tốt. Khi gạo tập trung ở các kho quân lương, để đỡ mang vác, Chủ nhiệm Trần Kiên có sáng kiến đóng gạo vào bao, bên ngoài bọc thêm bao ni lông, buộc chặt rồi thả bao xuống đầu nguồn các sông, suối, thông báo cho bộ đội ở cuối nguồn vớt. Khi đó chúng tôi ở hạ lưu các sông, suối đã nhận được nhiều bao gạo trôi về. Việc vớt lên nhàn nhã hơn nhiều so với việc gùi thồ trên rừng trước kia. Cũng thời kỳ này, bộ đội tập trung đông, thức ăn chủ yếu là rau rừng, phổ biến là các cây rau dớn, rau má và rau môn dóc. Anh chỉ thị khi lấy môn dóc chỉ được dùng dao cắt phần thân và lá để nấu canh cho bộ đội, còn phần thân dưới cùng củ của nó sẽ lại nảy mầm ra lớp lá khác, sử dụng tiếp. Anh cho anh em trồng các nương sắn, quy định sau 9 tháng đến mùa thu hoạch, lấy củ xong thì lại phải chặt hom trồng tiếp vào chỗ vừa dỡ, để mùa sau cho đơn vị khác đến thu hoạch. Cứ như vậy, năm này qua năm khác, “nương sắn Trần Kiên” đã nuôi bao nhiêu lượt bộ đội trên đường vào Nam chiến đấu.

Một lần về họp khu ủy mở rộng, lúc đó tôi là Bí thư Tỉnh ủy Quảng Nam, đi nửa ngày đường gặp đoàn anh Trần Kiên cũng đang đi công tác trở về căn cứ. Cơ quan khu ủy và Bộ tư lệnh Quân khu cùng đóng ở xã Mai, vùng cao của Trà My. Đi gần đến cơ quan thì đã gần trưa, tôi dự định vào văn phòng khu ủy ăn trưa. Anh liền bàn với tôi, bây giờ vào cơ quan phiền chị nuôi, mình nghỉ đây, nấu cơm ăn xong sẽ vào. Thế là chúng tôi xúm lại kê bắc bếp, chỉ nấu nồi canh rau rừng rồi ăn với lương khô, muối mè mang theo. Vào đến cơ quan đúng đầu giờ chiều họp. Tôi thấy cách xử sự của anh thật hợp lý, vừa không làm phiền người khác lại nhanh gọn, tiết kiệm. Nên nhớ, lúc bấy giờ vận chuyển được hạt gạo từ đồng bằng lên rất khó khăn gian khổ, có khi phải đánh đổi bằng xương máu.

Cuối năm 1970, anh Trần Kiên được phân công làm Trưởng ban Tổ chức Khu ủy. Trong một thời gian ngắn ngủi làm công việc này, anh chỉ đạo cùng các cấp ủy xây dựng củng cố cơ sở Đảng vì sau Tết Mậu Thân 1968, địch tập trung đánh phá rất khốc liệt. Các huyện ủy được anh chỉ đạo “4 bám”: Dân bám đất, du kích bám địch, cán bộ bám dân, trên bám dưới. Thời kỳ đó, việc kết nạp được một đảng viên, giữ được một người dân quý như vàng. Gian khổ, ác liệt là vậy, Trần Kiên vẫn bám cơ sở, cùng các tỉnh ủy lo công việc xây dựng cơ sở Đảng, củng cố xây dựng huyện ủy và việc giữ, giành dân được xem là nhiệm vụ trọng tâm lúc đó.

Sau năm 1970, anh Trần Kiên bị đau dạ dày nặng, tổ chức đưa anh ra miền Bắc chữa bệnh một thời gian; đến năm 1971, anh trở lại chiến trường, được phân công làm Tư lệnh Đoàn 733. Nhiệm vụ của đoàn là đón nhận thanh niên miền Bắc vào khai hoang vỡ hóa vùng đất Tây Nguyên, miền Tây Khu 5 để tăng gia sản xuất lương thực, nuôi bộ đội kết hợp huấn luyện để bổ sung quân. Đây là một chủ trương lớn, nhằm bảo đảm hậu cần tại chỗ cho địa bàn Khu 5 thường bị địch đánh phá ác liệt, việc chi viện lương thực rất khó khăn. Chỉ trong một thời gian ngắn, Đoàn 733 đã đón nhận được 30.000 bộ đội miền Bắc vào khai hoang hàng vạn héc-ta đất canh tác để nuôi quân trong thời kỳ cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Mùa xuân năm 1975, anh Trần Kiên được phân công trong Ban chỉ đạo Chiến dịch Tây Nguyên, giải phóng Tam Kỳ-Quảng Ngãi; Huế-Đà Nẵng... Sau đó, anh tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh, giải phóng Sài Gòn. Cuối năm đó, Khu ủy phân công anh là Bí thư Tỉnh ủy Gia Lai-Kon Tum (nay Gia Lai và Kon Tum)...

Rồi anh được điều về Trung ương, được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương các khóa IV, V, VI; Bộ trưởng Bộ Lâm nghiệp; Bí thư Tỉnh ủy các tỉnh Quảng Ngãi, Nghĩa Bình (nay là Quảng Ngãi và Bình Định), Gia Lai, Kon Tum, Đắc Lắc... Năm 1997, ở tuổi “thất thập” anh về hưu, vẫn không một phút giây nghỉ ngơi. Với tấm lòng của người cộng sản, anh thường trở về những địa bàn hoạt động trước đây, lắng nghe ý kiến nhân dân rồi cùng bàn với họ những biện pháp cụ thể, hay mang kiến nghị của họ đến những nơi có trách nhiệm giải quyết. Cuối đời, anh cùng vợ là bà Võ Thị Nhược không sống ở Hà Nội theo tiêu chuẩn cán bộ cao cấp, mà về quê ở Quảng Ngãi sống trong căn nhà bình dị như mọi người dân trong vùng. Thỉnh thoảng tôi vào Quảng Ngãi thăm vợ chồng anh, lần nào trò chuyện cũng vẫn xung quanh những kế sách cụ thể sao cho dân giàu, nước mạnh. Từ lâu tôi vẫn kính trọng, coi anh như người thầy, người anh. Về đạo đức, tư cách, anh xứng đáng là người cán bộ đủ các phẩm chất theo lời dạy của Bác Hồ: Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư!

PHẠM QUANG ĐẨU