Vì sao một chế độ xã hội đã đạt được những thành tựu vĩ đại, đóng góp to lớn cho sự phát triển của nhân loại, góp phần quyết định cứu loài người khỏi thảm họa phát xít bỗng chốc tan rã? Tựu trung, có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, nhưng nguyên nhân chính là do những sai lầm, khuyết tật của mô hình XHCN Xô viết và sự phản bội của các vị lãnh đạo trong thời kỳ “cải tổ”, đứng đầu là M.Gorbachev.
Những khuyết tật và sự trì trệ
Viện sĩ V.T.Sharapov sinh năm 1924, CCB Chiến tranh Vệ quốc, từng làm việc trong Ủy ban Kế hoạch Nhà nước Liên Xô, người được giải thưởng của Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô, trong một loạt bài giảng năm 2008 về Liên Xô đã viết: Từ năm 1924 đến năm 1955 là thời kỳ thu nhập quốc dân của Liên Xô đạt kỷ lục thế giới với mức tăng trưởng tới 15%, kể cả những năm Chiến tranh thế giới thứ hai. Tiềm lực công nghiệp của Liên Xô vào năm 1922 mới đạt 3% so với Mỹ, nhưng tới năm 1955, con số này là 60%. Liên Xô trở thành cường quốc thứ hai trên thế giới sở hữu vũ khí hạt nhân, công nghệ tên lửa và công nghệ vũ trụ, phóng vệ tinh nhân tạo đầu tiên vào năm 1957. Vượt qua hai cuộc chiến, mức sống của người dân Xô viết đạt mức khá cao so với thế giới, nợ quốc gia hầu như bằng không.
M.Gorbachev (trái) và B.Yeltsin - hai nhân vật thúc đẩy Liên Xô sụp đổ. Ảnh tư liệu.
Tuy nhiên càng về sau, mô hình kế hoạch hóa càng để lại những “di sản âm tính”. Đó là sự thiếu vắng cạnh tranh lành mạnh; không có động cơ của cả người lao động và xí nghiệp về tay nghề và năng suất lao động, từ đó hàng hóa sản xuất ra có chất lượng không cao, đồng thời tỷ suất tiêu thụ nguyên liệu của nền sản xuất quan liêu - mệnh lệnh quá cao. Khâu làm kế hoạch hóa thường trước 5 năm quá tốn kém và không tin cậy trong bối cảnh tranh đua kinh tế quyết liệt với phương Tây, không có khả năng xử lý nhanh với các bất trắc về thời tiết và phát sinh trong thực tiễn hoạt động sản xuất kinh doanh.
Mô hình kinh tế kế hoạch, bao cấp nặng nề “đẻ ra” nạn tham nhũng, ăn cắp của công. Thời Nikita Khrushchev làm Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô (1953-1964), ông gạch khỏi Hiến pháp Liên Xô Điều 131: “Mỗi công dân Xô viết có nghĩa vụ gìn giữ và củng cố tài sản XHCN, như nền móng thiêng liêng bất khả xâm phạm của chế độ, cũng chính là nguồn cho cuộc sống văn hóa vô cùng phong phú của toàn thể những người lao động”. Theo học giả Sharapov, Khrushchev vô hình trung tạo những tiền đề cần thiết để cho các tổ chức mafia xuất hiện, “bật đèn xanh” cho việc cướp phá tài sản quốc gia và sự trù úm những ai đấu tranh chống tiêu cực.
Theo sách của học giả Roy Medvedev (sinh năm 1925), nguyên Ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Liên xô, nguyên Ủy viên Hội đồng Xô viết Tối cao Liên Xô, đến giai đoạn dài Leonid Brezhnev làm Tổng Bí thư (1964-1982), khác với thời Stalin, cả nước xem chuyện ăn cắp tài sản XHCN là “chuyện thường”. Để bảo đảm cho sự “ổn định” mà sau này người ta dùng từ “trì trệ” để mô tả thời kỳ này, Tổng Bí thư Brezhnev đã không kỷ luật Bí thư thứ nhất Đảng Cộng sản Gruzia, Mzhavanadze khi ông này và vợ bị một số lãnh đạo Đảng tố cáo tội tham nhũng. Chỉ khi Mzhavanadze gây nhiều áp phe và tai tiếng ở cả các vùng ngoài phạm vi Cộng hòa Gruzia, Brezhnev mới chấp nhận việc cách chức Bí thư thứ nhất và Ủy viên Bộ Chính trị của ông ta.
Năm 2009, GS, TS ngành tài chính - kế toán Nga E.Sapiro, nguyên Bộ trưởng Chính sách vùng lãnh thổ và dân tộc Liên bang Nga ra cuốn sách Nghị luận về vận may: Hồi ức và suy ngẫm. Theo Sapiro, Brezhnev từng nuôi niềm tin thánh thần vào các nhân sự là “đồng hương”. Dù Gorbachev không quá nặng chứng này, di sản cục bộ, địa phương, bè cánh bênh che nhau trong đường lối cán bộ vẫn ảnh hưởng sâu sắc tới thời “cải tổ”.
Mặc dù còn nhiều khuyết tật và sự trì trệ, song người dân Liên Xô vẫn còn niềm tin, hy vọng vào đất nước một thời hùng cường này. Cuộc trưng cầu dân ý ngày 17-3-1991 (trước khi Liên Xô sụp đổ 9 tháng) cho thấy, 76,4% công dân Liên Xô bỏ phiếu để giữ lại Liên bang Xô viết. Nhưng cuối năm đó, Liên Xô vẫn tan rã. Chính M.Gorbachev, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô, Tổng thống Liên Xô và ê kíp của ông ta là nguyên nhân chính gây nên thảm họa này.
Sự phản bội của Gorbachev
Sau khi hai Tổng Bí thư Y.Andropov và K.Chernenko tạ thế, Ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô chủ trương đưa một Tổng Bí thư trẻ khỏe, đủ quỹ thời gian cho công cuộc chuyển đổi nền kinh tế từ mô hình phát triển theo chiều rộng vào quỹ đạo phát triển theo chiều sâu. M.Gorbachev được lựa chọn.
M.Gorbachev được Bộ Chính trị bầu làm Tổng Bí thư ngày 11-3-1985, lúc 54 tuổi, trẻ nhất Bộ Chính trị lúc bấy giờ. Lập tức ông chủ trương “cải tổ”.
Học giả Sharapov viết về giai đoạn cải tổ: “Bắt đầu từ năm 1986 là các cuộc tổ chức lại, chuyển đổi chức năng diễn ra ở khắp các bộ và tổng cục, kéo theo việc cắt ngắn danh mục hàng hóa thiết yếu cần lên kế hoạch sản xuất, các mối quan hệ kinh tế lâu đời bị cắt đứt, cung cách lãnh đạo ích kỷ, hẹp hòi, thậm chí có yếu tố phạm pháp được dung dưỡng. Xảy ra sự hỗn loạn trên toàn nền kinh tế”.
Vào thời kỳ đầu của “cải tổ”, việc đầu tiên mà Gorbachev tiến hành là đẩy hệ thống điều hành vào trạng thái bất ổn. Cú đột phá đầu tiên là hút nguồn lực quốc gia vào lĩnh vực chế tạo máy do ông ta đề xướng vào năm 1985 và kết quả là Liên Xô đã đốt 60 tỷ rúp, do đó các lĩnh vực kinh tế khác bị suy thoái, xã hội bất ổn, xuất hiện tình trạng Đảng không kiểm soát được hoạt động kinh tế. Gorbachev giải thể các Bộ Nông nghiệp, Bộ Công nghiệp thực phẩm, Bộ Công nghiệp nhẹ, Bộ Chế biến rau quả, Bộ Lâm nghiệp của Liên Xô, cũng là các đầu mối trực tiếp bảo đảm cuộc sống cho người dân. Thay vào các bộ đó, theo sáng kiến của Tổng Bí thư, là Tập đoàn Công nông nghiệp Nhà nước khổng lồ do một bạn cũ từ thời làm Bí thư Stavropol của Gorbachev đứng đầu. Tập đoàn này đã suy sụp cùng với nền sản xuất nông phẩm và các ngành công nghiệp nhẹ. Người dân tuyệt vọng đứng xếp rồng rắn trước những quầy hàng nhu yếu phẩm lèo tèo.
Lợi dụng những nhộm nhoạm trong “cải tổ”, những kẻ có đặc quyền, thường là các vị quản lý, hoặc phụ trách tài sản công đã sử dụng quyền hành để chiếm đoạt tài sản của nhân dân Xô viết, rồi tiếp tục dùng quan hệ quyền - tiền để hợp pháp hóa đống của cải nguồn gốc mờ mịt này.
Sharapov viết tiếp: “Năm 1988, việc thông qua Luật về hợp tác xã đã hợp thức hóa kinh doanh bóng tối và tạo điều kiện thuận lợi để “rửa” các khoản tư bản có nguồn gốc tội phạm. Tới trước năm 1991, đất nước Liên Xô đã bước vào nhịp điệu giảm về thu nhập quốc gia, có nghĩa là tới sụp đổ”.
Nhìn lại tiến trình này, Sharapov cho rằng, Gorbachev phá hoại từ trên để tạo những điều kiện thuận lợi cho phục hồi Chủ nghĩa tư bản.
Trong tác phẩm Bí ẩn diệt vong của Liên Xô-Lịch sử những âm mưu và phản bội 1945-1991, tác giả A.Seviakin cho rằng, nhân cơ hội rối loạn về kinh tế, Gorbachev tiếp tục làm phức tạp hóa tình hình và sai lầm, đẩy mạnh cải cách chính trị với khẩu hiệu “công khai hóa, dân chủ hóa”. Trong hơn 6 năm trên cương vị Tổng Bí thư (1985-1991), ông ta thay đổi hoàn toàn Bộ Chính trị và bộ phận chủ yếu của Ban Chấp hành Trung ương. Chỉ trong năm đầu cầm quyền, Gorbachev thay 14 trong 23 lãnh đạo Ban Bí thư, 39 trong 101 bộ trưởng. Sau đó, Gorbachev tiếp tục tung ra cái gọi là “tư duy chính trị mới” thực chất là xóa nhòa ý thức hệ tư tưởng, tạo ra cuộc “Diễn biến hòa bình” ngay trong lòng xã hội Xô viết và Đảng Cộng sản Liên Xô.
Đòn đánh gục hệ thống XHCN, theo Sharapov, được thực hiện bởi Gorbachev và lãnh đạo các nước Cộng hòa Xô viết như Yeltsin, Kravchuk, Shushkevych, Nazarbayev, Aliev… những người “tắm” trong xa hoa nhung lụa trong khi người dân Liên Xô nghèo xác xơ.
Tại chương Hai của sách Nghị luận về vận may: Hồi ức và suy ngẫm đã dẫn ở trên, Sapiro đưa ra một tổng thuật về cách “cầm lái” ở Liên Xô giai đoạn sau cùng: “Brezhnev đâm đầu vào cuộc chạy đua vũ trụ khốc hại, chính dưới quyền của ông này tham nhũng ở quy mô lớn lần đầu tiên được gieo mầm”. Còn M.Gorbachev như sau này-năm 1999 đã thú nhận: “Mục tiêu toàn bộ cuộc đời tôi là tiêu diệt Chủ nghĩa cộng sản. Chính vì để đạt được mục tiêu này, tôi đã sử dụng địa vị của mình trong Đảng và Nhà nước. Tôi đã phải thay đổi toàn bộ Ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô và Xô viết Tối cao cũng như Ban lãnh đạo các nước cộng hòa. Tôi đã tìm kiếm những người ủng hộ để hiện thực hóa mục tiêu đó, trong số này đặc biệt có A.Yakovlev, Shevardnadze...”.
Tựu trung, theo nhiều học giả nhận định, sự phản bội lớn nhất của Gorbachev là thủ tiêu vai trò của Đảng Cộng sản Liên Xô đối với xã hội, cổ vũ hình thành các tổ chức chính trị đối lập, thực hiện đa nguyên, đa đảng, kéo theo sự sụp đổ không những ở Liên Xô, mà cả hệ thống XHCN ở Đông Âu.
Mặc dù còn nhiều khuyết tật và sự trì trệ, song người dân Liên Xô vẫn còn niềm tin, hy vọng vào đất nước một thời hùng cường này. Cuộc trưng cầu dân ý ngày 17-3-1991 cho thấy, 76,4% công dân Liên Xô bỏ phiếu để giữ lại Liên bang Xô viết. Nhưng cuối năm đó, Liên Xô vẫn tan rã. Chính M.Gorbachev, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô, Tổng thống Liên Xô và ê kíp của ông ta là nguyên nhân chính gây nên thảm họa này.
|
LÊ ĐỖ HUY (lược dịch)