QĐND - Đầu năm 2006, tôi sang sông Đuống thăm Đại tá, nhà thơ Phạm Ngọc Cảnh. Đó là ngôi nhà nhỏ ở ngõ nhỏ, vốn là khu tập thể Nhà máy gỗ diêm Cầu Đuống-nơi người vợ đầu của ông công tác (nay là đường Ngô Gia Tự, phường Đức Giang, quận Long Biên, Hà Nội). Hôm đó, trông ông rất thương. Nhà thơ bộc trực, thẳng thắn của những vần thơ đánh giặc hào sảng “Lý ngựa ô ở hai vùng đất” nay ngồi im lặng bên ban thờ vợ. Đã 100 ngày bà về với tổ tiên. “Họa vô đơn chí”, sau khi bà mất được 50 ngày, ông bị tai biến, một căn bệnh như vợ, may mà ông gượng dậy được.
 |
Chị Vũ Thị Tỵ, người vợ đầu của nhà thơ Phạm Ngọc Cảnh. Ảnh tư liệu. |
Định hỏi ông về thơ văn, song câu chuyện vẫn quay trở về người vợ quá cố của ông. Ông kể, vợ ông tên Vũ Thị Tỵ, kém ông 3 tuổi, người ở làng Bưởi, Hà Nội, diễn viên múa của Đoàn văn công Tổng cục Chính trị. Sau Chiến thắng Điện Biên Phủ, ông từ Đoàn văn công Sư đoàn 325 về Đoàn Kịch nói Quân đội, tình cờ gặp, quen và sau nên duyên vợ chồng. Tôi hỏi, chị ấy có đẹp không anh? Nhà thơ trợn mắt: “Đẹp, đẹp lắm! Con gái quê tớ không có ai đẹp như thế! Sau khi cưới, tớ đưa cô ấy về quê. Cả thị xã Hà Tĩnh đến xem mặt cô gái Hà Nội như người ta xem bảo tàng. Thế cơ mà!”.
Rồi ông đưa ảnh của vợ cho tôi xem. Nhà thơ thì thường hay quá lời, nhưng cô gái trong ảnh quả rất đẹp với đôi mắt sáng và nụ cười hiền. Ông bảo, bà là điểm tựa khi ông rời Đoàn Kịch nói Quân đội với vai diễn Trung úy Phương nổi tiếng trong vở kịch “Nổi gió” của Đào Hồng Cẩm để vào chiến trường miền Nam đánh Mỹ và nỗi khát khao cháy bỏng làm thơ. Những khao khát, cháy bỏng, nỗi thương nhớ vợ luôn thiêu đốt tâm can ông để trở thành ngọn lửa thăng hoa làm nên một “Lý ngựa ô ở hai vùng đất” lay động lòng người: Mặt đất ra sao mà thúc vào điệu lý/ Khuôn mặt ra sao mà suốt thời chống Mỹ/ Lý ngựa ô hát đến mê người/ Mỗi bước mỗi bồn chồn về em đó, em ơi…
Nhưng, một tai họa giáng xuống đầu ông bà. Sau khi chuyển ngành về Nhà máy gỗ diêm Cầu Đuống, năm 1985, bà bị tai biến, nằm liệt giường suốt 20 năm cho đến khi mất, năm 2005. Ông bảo, những năm đầu trong chuỗi 20 năm đó, ông rất nản, nhiều lúc bế tắc. Vợ ốm, con còn nhỏ dại, ông phải lo toan hết việc nhà từ chợ búa cơm nước đến chăm sóc vợ. Để có thêm thu nhập trang trải cuộc sống vì đồng lương sĩ quan của một biên tập thơ của Tạp chí Văn nghệ quân đội hồi đó còn eo hẹp, ông cật lực viết kịch bản phim, viết lời bình cho hàng trăm phim tài liệu, phim truyền thống. Con người tài hoa đó lúc nào cũng thương vợ, thương con. Vừa tắm rửa, giặt quần áo, cơm nước cho gia đình, ông vừa nhớ về ngày trước của vợ: Giặt áo chồng giăng kín chiếc sào phơi/ Đường chỉ vụng chẳng cần chi giấu bọc/ Thơ viết cho mình trang thơ ấy ơi/ Nghìn bận cám ơn đời cho ta được khóc… (Người làm thơ cho mũi đất).
Ông cũng nói với tôi, cuộc đời và thơ ông có nhiều lúc bế tắc lắm. Bế tắc cả về nhân tình thế thái. Nhưng mỗi lúc như vậy, người mà ông tựa lưng vào xin hỗ trợ một chút tâm linh, xin hỗ trợ sức lực để đi tiếp là người lính, người tình. Người tình ở đây đừng nghĩ là chuyện trai gái. Không phải. Đây là con người, gặp nhau một lần nhớ suốt đời. Tôi nói, người lính thì em hiểu rồi, vì đời anh toàn trận mạc và tiếp xúc nhiều với bộ đội, còn người tình, người tình cụ thể? Ông bảo, có đấy. Tôi chẳng giấu giếm điều gì. Cô ấy tên Hương, người xứ Thanh. Khi vợ tôi nằm liệt giường được 3 năm thì rất nản. Lúc ấy, cô Hương là học trò của tôi tình nguyện sang săn sóc. Cô ấy còn bảo: “Thầy đừng bỏ nghề, em xin theo thầy suốt đời”. Và tình yêu, tình nghĩa cứ thế kéo dài suốt 17 năm qua…
Không chỉ 17 năm mà tình yêu, tình nghĩa ấy kéo dài hơn 10 năm nữa cho đến ngày Đại tá, nhà thơ Phạm Ngọc Cảnh về với đất mẹ, tháng 10-2014. Theo nhà thơ Nguyễn Thanh Kim, thì năm ấy, chị Cao Giáng Hương bảo vệ tốt nghiệp tại Trường Đại học Văn hóa, được dự bảo vệ tốt nghiệp khóa 3 Trường Viết văn Nguyễn Du. Chưa dự hết buổi thì nhà thơ Đoàn Thị Ký nhờ chị lo cơm tiếp khách. Vị khách ấy chính là nhà thơ Phạm Ngọc Cảnh, một người thầy cũng là bạn thơ của chị. Bữa cơm hôm ấy ngoài rau xanh, đậu phụ rán còn có thêm món trứng tráng. Khi ăn, nhà thơ khen vị của trứng đậm đà tình người miền Trung. Chị Hương xấu hổ vì thói quen ăn mặn của sinh viên, nhưng nhà thơ trấn an ngay. Anh bảo, anh rất thích vị đậm đà của muối vì anh được sinh ra từ đó. Sau đó, chị và một người bạn nhận lời mời sang nhà anh chơi. Cuộc gặp gỡ rất vui với những bàn luận thơ văn sôi nổi, đến khi chia tay mới biết chị Tỵ nằm liệt giường. Thế là chị Hương quyết định ở lại vài ngày để chăm sóc chị Tỵ, như một lời chuộc lỗi. Trong những ngày đó, chị Hương thường xuyên tắm gội cho chị Tỵ. Chị Tỵ rất thích. Chị hẹn: “Lần sau Hương lại đến tắm gội cho chị nữa nhé”. Dòng nước mát ấy như sợi tơ hồng nối tình chị, duyên em trọn một đời.
"Có phúc, có phần”, nếu như Phạm Ngọc Cảnh chăm sóc cho vợ đầu ân cần bao nhiêu thì sau khi chị Tỵ mất, chị Hương lại chăm sóc cho ông trong những cơn bạo bệnh chu đáo bấy nhiêu. Những cơn tai biến không làm ông sụp đổ, bởi bên ông, người ta luôn thấy một người đàn bà nhẫn nại, luôn vỗ về ông, ở nhà cũng như ở bệnh viện, cho đến lúc ông về cõi vĩnh hằng vào một ngày thu Hà Nội, 21-10-2014.
HỒNG SƠN