QĐND - Những kỷ niệm, kỷ vật về người vợ và sự thành đạt của các con cháu trở thành sức mạnh và niềm vui để Đại tá, bác sĩ Chuyên khoa II Phan Thế Nghiệp, nguyên Chỉ huy trưởng Trung tâm Đào tạo và Nghiên cứu Y học quân sự phía Nam vượt qua được gánh nặng tuổi tác và quy luật khắc nghiệt của thời gian. Nhìn dáng đi và nụ cười hào sảng, ít người biết rằng, ông đang phải đối mặt với căn bệnh ung thư tiền liệt tuyến… Ông kể cho chúng tôi nghe chuyện đi làm cách mạng, lập gia đình và trở thành bác sĩ chiến trường... Trong từng câu chuyện, đều có bóng dáng và vai trò của bà Vũ Thị Sương - người bạn đời tri kỷ của ông.
Nên duyên khi làm cách mạng
Bác sĩ Phan Thế Nghiệp sinh năm 1931, quê ở huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang. Ông tham gia cách mạng lúc mới 14 tuổi, tại vùng Đồng Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp. Năm 17 tuổi, ông bị địch bắt và đưa về giam ở bốt An Hữu (Tiền Giang). Sau đó, nhờ khả năng địch vận, ông vượt ngục, tiếp tục trở về căn cứ hoạt động cách mạng. Quá trình công tác, anh y tá dân y Phan Thế Nghiệp gặp được Vũ Thị Sương-người cán bộ phụ nữ huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp. Bà Sương quê ở Ninh Bình nhưng theo gia đình vào vùng Đồng Tháp Mười và tham gia hoạt động cách mạng từ nhỏ. Vốn năng động, hoạt bát và có tài văn hóa, văn nghệ nên hai người có nhiều điểm tương đồng, gặp và quen nhau trong những lần giao lưu giữa hai đơn vị. Ông còn nhớ như in ngày cưới của mình: “Đám cưới thời chiến thật giản dị, mộc mạc mà đậm tình đồng chí, đồng đội. Mọi người đến chúc mừng, bắt tay động viên rồi lại tranh thủ trở về địa bàn hoạt động. Món quà cưới duy nhất gia đình tặng vợ chồng tôi là chai dầu thơm. Đêm tân hôn, không có buồng cưới, hai vợ chồng trải nóp (giống như chiếc đệm-PV) ra đất để ngủ. Đêm đó, một đơn vị của Tiểu đoàn 307 đi ngang qua chỗ nằm của hai vợ chồng, họ bàn tán hỏi nhau tại sao có mùi gì thơm ở khu vực này. Hai vợ chồng nhìn nhau cười khúc khích, đúng là một kỷ niệm khó quên”.
 |
Đại tá, bác sĩ Phan Thế Nghiệp giới thiệu về quyển nhật ký của người vợ. Ảnh: Kim Ngọc.
|
Cũng năm đó, y tá dân y Ba Nghiệp (Phan Thế Nghiệp) vinh dự đứng vào hàng ngũ Đảng Cộng sản Việt Nam. Thật đúng là “song hỷ lâm môn”, được vào Đảng, rồi có gia đình, bản thân càng quyết tâm theo cách mạng để đấu tranh cho độc lập, tự do của đất nước. Tuy vợ ít hơn ông một tuổi nhưng lại được kết nạp Đảng trước ông một năm. “Bà ấy là dân cách mạng nòi đó nghen!”-Ông cười bảo.
Năm 1953, ông bà có người con trai đầu lòng, đặt tên là Phan Thế Hùng. Giữa vùng Đồng Tháp Mười mênh mông nước lũ, căn lều nhỏ của ông bà thêm cheo leo. Ông còn nhớ đã luôn phải thức đêm theo dõi con nước lớn để nâng tấm phản giường lên cho khỏi bị ngập và cũng chờ bà trở dạ. Đêm Đồng Tháp Mười “muỗi kêu như sáo thổi”. Thức ăn chính của cả nhà chủ yếu là rắn, chuột, ếch, cá đồng…
Trong khoảng thời gian đình chiến thực hiệp Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954, ông bà tập kết ra Bắc theo sự phân công của tổ chức. Lúc ấy, bà đang mang thai người con thứ hai nên xin tập kết theo đường công khai, đi máy bay từ Sài Gòn ra Hải Phòng rồi mới di chuyển về Hà Nội. Còn ông thì đi đường tàu hỏa ra Bắc. Ra Hà Nội, ông về học tại Trường Sĩ quan Quân y và Viện Nghiên cứu Y học quân sự.
Năm 1963, bác sĩ Phan Thế Nghiệp xung phong vào miền Nam chiến đấu. Sau hơn ba tháng trèo đèo lội suối, vượt qua biết bao hiểm nguy, đói rét, đoàn “đi B” của ông đã đặt chân đến Chiến khu Đ (miền Đông Nam Bộ). Tại đây, ông được phân công về Trường Quân y Miền làm cán bộ giảng dạy. Nhưng chỉ ở trường một thời gian ngắn, tháng 11-1964 ông được Phòng Quân y Miền giao nhiệm vụ làm Đội trưởng Đội điều trị 112. Đội điều trị của ông sau đó sáp nhập với Đội điều trị 116 thành Bệnh viện dã chiến Cánh Đông, phục vụ Chiến dịch Bình Giã...
Lại nói về bà, khoảng thời gian ấy, một mình bà ở miền Bắc vừa chăm lo cho bốn người con, vừa chủ động học tập nâng cao trình độ văn hóa đủ điều kiện theo học khóa đào tạo bác sĩ. Lúc bấy giờ, bà ở khu tập thể Kim Liên, phụ trách y tế ở Cục Điện lực. Khi đế quốc Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại ở miền Bắc, bà và các con phải đi sơ tán. Có lúc thì ở Hải Phòng, lúc ở Bình Đà, Thanh Oai, Hà Đông (Hà Nội bây giờ). Khoảng thời gian năm 1970-1971, hai người con đầu của ông được cử sang học tại Hung-ga-ri.
Ở chiến trường miền Nam, ông luôn mong mỏi tin tức của gia đình. Sau gần 7 năm từ khi ông đặt chân tới chiến trường thì mới nhận được thư của vợ con ở miền Bắc gửi vào. Đó là lần đồng đội của ông phát hiện một túi chứa nhiều lá thư trôi dưới một con suối. Mở túi ra thì phát hiện có lá thư đề địa chỉ người nhận là ông. Mọi người chuyền tay nhau để đưa về cho ông. Đó là lá thư của con trai đầu từ Hung-ga-ri gửi về Hà Nội, bà lại gửi vào miền Nam cho ông. Lá thư ấy có vết đạn xuyên qua, nhưng may không bị thấm nước, ông vẫn còn giữ đến tận bây giờ. Sau này, ngày đoàn tụ gia đình, ông đã kể lại việc này cho bà nghe. Ông cho biết: “Thấy lá thư, tôi mừng lắm vì biết được tình hình vợ con. Chiến tranh ác liệt quá, có thể người giao liên đưa thư đã hy sinh và đây không phải là lá thư đầu tiên mà vợ con gửi cho tôi”. Ông lặng im, mắt nhìn xa xăm…
Năm 1970, bác sĩ Phan Thế Nghiệp trở lại giảng dạy ở Trường Quân y Miền cho đến ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Bác sĩ Ba Nghiệp cùng đồng đội vào tiếp quản Trường Quân y quân đội Sài Gòn (tại quận 10 ngày nay). Ông đã trải qua các chức vụ: Chủ nhiệm Bộ môn Ngoại, Chỉ huy phó rồi Chỉ huy trưởng Phân hiệu Học viện Quân y kiêm Viện trưởng Quân y 115, Chỉ huy trưởng Trung tâm Đào tạo và Nghiên cứu Y học quân sự phía Nam-Học viện Quân y, trước khi nghỉ hưu vào năm 1997.
Nặng nghĩa vợ chồng
Căn phòng rộng khoảng 15m2 của ông ở, bên cạnh tài liệu, những tấm huân chương, huy chương các loại là ảnh của vợ ông được treo ở vị trí trang trọng, dễ nhìn nhất. Ngay ở đầu giường, ông cũng đặt ảnh vợ để mỗi lần nhớ đến bà, ông dễ lấy ra ngắm. Phía đối diện giường là bức ảnh trắng đen của hai vợ chồng và bốn người con khi gia đình còn ở miền Bắc. Những lúc ngả lưng, ông lại ngắm nhìn hạnh phúc.
 |
Gia đình Đại tá, bác sĩ Phan Thế Nghiệp khi ở miền Bắc. Ảnh do gia đình cung cấp.
|
Có một vật luôn được ông đặt bên dưới gối là quyển nhật ký của bà và đó là “món ăn tinh thần” không thể thiếu hằng ngày của ông. Trang đầu quyển nhật ký đề ngày 12-2-1963, lúc bà tiễn ông lên tàu vào Nam ở ga Hải Phòng. Những trang cuối kết thúc vào tháng 7- 1975. Dẫu thời gian trôi qua hơn 40 năm, ông vẫn giữ quyển nhật ký của bà thẳng nếp. Ông tâm sự: “Mỗi lần đọc nhật ký của vợ, tôi lại hiểu được tình cảm, nỗi vất vả của vợ con, hiểu được bối cảnh miền Bắc lúc bấy giờ. Gần 13 năm xa nhau, người vợ thủy chung của tôi đã tần tảo nuôi các con ăn học nên người, thành tài, chờ ngày giải phóng để sum họp gia đình”. Ông ngưng giây lát và dường như có gì đọng lại nơi khóe mắt. Ông khoe, tất cả những kỷ vật về bà, ông cất đầy ngăn tủ, là khối “tài sản vô giá” cả đời của ông.
Được biết, sau ngày giải phóng, ông đón gia đình vào sinh sống tại TP Hồ Chí Minh và liên hệ nơi tiếp nhận để bà ổn định công việc. Ông chia sẻ, đây là quãng thời gian hạnh phúc nhất của đời mình kể từ ngày nên duyên vợ chồng. Bà công tác ở Công đoàn TP Hồ Chí Minh và Hội đồng Giám định y khoa thành phố. Đến năm 1980, chẳng may bà mắc bệnh alzheimer, trí tuệ sa sút, sức khỏe ngày càng yếu đi. Thương vợ, ông xin nghỉ việc để tận tay chăm sóc bà, bù đắp khoảng thời gian bà thay ông gánh vác công việc của người chồng, người cha đối với gia đình và các con để ông yên tâm hoàn thành nhiệm vụ ở chiến trường. Khi bà nằm trên giường bệnh, ông tận tay chăm sóc bà. Từng bát cháo, viên thuốc, ông chuẩn bị chu đáo, tỉ mỉ từ những công việc nhỏ nhất. Tháng ngày dần trôi, bà đã thanh thản về với tổ tiên cách đây hơn 10 năm. Ông dặn các con, khi nào ông mất thì đem đi hỏa táng, rồi mang tro cốt đặt vào phần mộ của bà tại Nghĩa trang TP Hồ Chí Minh để hai người được nằm gần nhau.
85 tuổi đời, 65 tuổi Đảng, hình ảnh bác sĩ Phan Thế Nghiệp tại phường 15, quận 5, TP Hồ Chí Minh là người bác sĩ già với tấm lòng thiện nguyện, chăm sóc sức khỏe cho người nghèo, neo đơn; là một nhà giáo mẫu mực khi luôn giảng dạy miễn phí cho các lớp đào tạo, chuyên tu bác sĩ, các chuyên khoa sau đại học. Và ai cũng vậy, họ quý trọng, ngưỡng mộ gia đình ông và “tài sản vô giá” của ông.
BẢO THƯ